Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
phần 7
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày
5 tháng 04 năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang
Tập 13
“Duy lại thử phương tiện
pháp môn, đản bằng tín nguyện tŕ danh, tiện năng
công siêu lũy kiếp, văng sanh Cực Lạc, kính
đăng Bất Thoái” (Chỉ nhờ vào pháp môn
phương tiện này, cậy vào tín nguyện tŕ danh, công
liền vượt trỗi bao kiếp, văng sanh Cực Lạc,
nhanh chóng chứng lên Bất Thoái). Lần trước chúng
ta học tập tới đây. Hôm nay chúng ta tiếp tục:
“Nhược vô như thị
vi diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử
nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn” (Nếu
chẳng có pháp môn vi diệu như thế này, phàm phu làm sao
có thể vượt qua biển nghiệp sanh tử này, lên
được bờ kia). Đây là cụ Niệm Tổ cảm
thán vô hạn, nhắc nhở chúng ta: Nếu không có pháp môn
này, tức là pháp môn “tín nguyện
tŕ danh, văng sanh Tịnh Độ” này, có thể nói là
chúng sanh đời Mạt Pháp sẽ chẳng một ai có
thể vượt thoát sanh tử luân hồi trong một
đời này. V́ sao nói như thế? V́ tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều phải tiêu nghiệp chướng, chẳng
hề đới nghiệp. Lục đạo do Kiến
Tư phiền năo biến hiện; đoạn Kiến
Tư phiền năo th́ luân hồi lục đạo chẳng
c̣n nữa! Quả thật lục đạo giống như
một cơn ác mộng; đoạn xong Kiến Tư phiền
năo sẽ tỉnh giấc mộng. Đó là như đức
Phật thường nói trong kinh: “Hết thảy những ǵ có h́nh tướng đều
hư vọng”, chẳng thật! Trong kinh Phật nói [điều
này] rất nhiều, quư vị quan sát cẩn thận, sẽ
thấy đúng như đức Phật đă nói, đức
Phật dạy chẳng sai một tí nào! Chúng ta đă luân hồi
trong thế gian này chẳng biết bao nhiêu lần, chẳng
thể nói rơ được! Do tập khí quá nặng, thời
gian quá dài, đức Phật đă giảng rất rơ ràng,
rất minh bạch, chúng ta muốn đoạn nhưng chẳng
thể đoạn được. Kiến giải sai lầm,
chấp trước nhục thân này là chính ḿnh, luôn v́ thân thể
này, tuy thân thể chẳng phải là ta, mà v́ nó bèn tự tư
tự lợi, mưu cầu tiếng tăm, lợi dưỡng.
Quư vị thấy: V́ ba tấc lưỡi chẳng nát thường
muốn nếm ngũ vị, quư vị nói xem ta đă v́ nó mà
tạo bao nhiêu tội nghiệp? Ăn thứ này thứ nọ,
nuốt qua khỏi cổ họng sẽ chẳng c̣n mùi vị
ǵ nữa, chẳng nhận biết nữa, nhưng do ba tấc
lưỡi tham đắm vị ngon, cả đời này
đă tạo bao nhiêu nghiệp? Thân này không phải là ta, mấy
ai giác ngộ? Thân thể này là huyễn tướng, là công
cụ; khi mê công cụ này tạo nghiệp; lúc giác ngộ nó
bèn tu tập, tích lũy công đức. Chúng ta phải khéo lợi
dụng công cụ này, đừng để nó tạo tội
nghiệp, phải dùng nó để giúp chúng ta hóa giải oán
nghiệp, tiêu trừ chướng ngại, như vậy
là đúng!
Các tổ
sư đại đức trong Phật môn chỉ dạy
chúng ta hăy “tá giả tu chân”
(nhờ vào cái giả để tu cái thật), thân thể
này là giả, nhờ vào nó để tu chân. “Chân” là chân tánh; chân tánh bất sanh bất diệt, đấy
mới là chính ḿnh. Do vậy, nói chung, phải nhận biết
rơ ràng. Nếu không nhận biết rơ ràng, sẽ mê hoặc.
Chỗ tốt đẹp trong môn này là đới nghiệp
văng sanh, có thể mang theo tập khí phiền năo từ vô thỉ
kiếp tới nay đi văng sanh, nhưng có điều kiện:
Mang theo nghiệp quá khứ, chẳng mang theo nghiệp hiện
hành; [tức là chỉ] có thể mang theo tội nghiệp
đă tạo trong quá khứ. Quá khứ là ǵ? Những ǵ
đă tạo trong ngày hôm qua đều là quá khứ, có thể
mang theo được, nhưng nếu lại tạo tác
trong ngày hôm nay, sẽ không thể văng sanh. Chúng ta mong cầu
văng sanh, tội nghiệp đă tạo trong ngày hôm qua có thể
sám hối, hôm nay ta sửa lỗi, đổi mới, ngày
hôm nay niệm Phật có thể văng sanh hay không? Chắc chắn
có thể văng sanh. Trong trường hợp nào sẽ chẳng
thể văng sanh? Ngày hôm nay vẫn tạo [tội lỗi] th́
chẳng có cách nào cả! Quư vị thấy pháp môn này thù thắng
lắm! [Nghiệp chướng trong] ngày hôm qua đều
có thể mang đi; chỉ sợ lúc lâm chung vẫn tạo
nghiệp! Nếu như vậy th́ chẳng có một tí ti
biện pháp nào! Tạo nghiệp ǵ vậy? Trong hơi thở
cuối cùng, vẫn c̣n ư niệm tư lợi, c̣n có ư niệm
tiếng tăm, lợi dưỡng, c̣n có ư niệm thấy
có kẻ nào xử tệ với ta, ta vẫn chưa báo thù.
Khi những ư niệm ấy khởi lên, sẽ không thể
văng sanh. Đối với người nhà, quyến thuộc
th́ tham ái, đối với chính ḿnh th́ do có lắm của
cải, niệm niệm chẳng buông bỏ, như vậy
là không được rồi! Đều phải bỏ sạch
sành sanh, chẳng nhiễm mảy trần, một tí vướng
mắc cũng chẳng có, lúc ấy mới có thể văng
sanh. Mấu chốt là một niệm cuối cùng. Do duyên
này quá thù thắng, mà cũng quá khó có, Phật, Tổ dạy
chúng ta mỗi ngày đều phải nghĩ đến văng
sanh. Nói cách khác, mỗi ngày đều phải nghĩ buông
xuống, triệt để buông xuống, chẳng lưu
luyến bất cứ thứ ǵ. Mỗi ngày đều suy
niệm như thế. Ngày hôm nay đức
Phật đến tiếp dẫn, ta lập tức ra
đi, vướng mắc ǵ cũng chẳng có, như thế
th́ quư vị sẽ thật sự văng sanh. Quư vị chẳng
thể nói: “A Di Đà Phật hăy chờ con, con c̣n có chuyện chưa lo liệu xong xuôi!” A Di
Đà Phật chẳng chờ quư vị, Ngài lại đi mất,
quư vị đă bỏ lỡ cơ hội. V́ thế, pháp
môn này thật là vi diệu.
Kế
đó, sách viết: “Cố đại
bi từ phụ, lưỡng độ đạo sư”
(v́ thế, đấng đại bi từ phụ, đấng
đạo sư hai cơi), từ ngữ “đại bi từ phụ” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật. Thích
Ca Mâu Ni Phật là Đạo Sư trong thế giới này, A
Di Đà Phật là Đạo Sư của thế giới Cực
Lạc. “Mẫn niệm ngă
đẳng, khai thử Tịnh Độ pháp môn, diệu
hiển khổ lạc nhị độ, khích dương
trầm mê chúng sanh” (nghĩ thương chúng ta, nên mở
ra pháp môn Tịnh Độ này, khéo léo chỉ bày hai cơi
sướng và vui, nhằm khích động, cổ vũ
chúng sanh đang mê muội ch́m đắm). Mở ra pháp môn
này; nói thật ra, pháp môn này là đại từ bi nguyện
lực của A Di Đà Phật. Hết thảy chư Phật
thành Phật quả thật hoàn toàn b́nh đẳng, trí huệ
b́nh đẳng, đức năng b́nh đẳng, phước
báo b́nh đẳng. V́ sao các thế giới của chư Phật
không giống thế giới Cực Lạc? Đấy là
do lúc tu Bồ Tát Đạo, nguyện lực khác nhau. A Di
Đà Phật phát nguyện phổ độ hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới. Phát nguyện
quá lớn như vậy, từ phần bốn mươi
tám nguyện trong kinh này, chúng ta sẽ thấy, quư vị hăy
đọc kỹ càng, chư Phật Như Lai có nguyện
lực khác nhau. V́ thế, sau khi thành Phật, Tịnh Độ
[của chư Phật] thắng diệu cũng chẳng giống
nhau. Trừ điều đó ra, chẳng có ǵ không giống
nhau. Đức Phật thương xót chúng ta, đặc
biệt là đối với chúng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư phiền năo tập khí nặng nề. Do vậy, cổ
đức đă nói: “Pháp môn này
trước là độ phàm phu, sau là độ thánh nhân”,
lời này là thật, chẳng giả! Phàm phu trọn đủ
ba điều kiện “Tín, Nguyện, tŕ danh niệm Phật”,
đầy đủ ba điều kiện này sẽ thành công.
Do mở ra pháp môn này là pháp môn đặc biệt ở ngoài
tám vạn bốn ngàn pháp môn, nên gọi là “môn dư đại đạo” (con đường
to lớn nằm ngoài các pháp môn). “Diệu hiển khổ lạc nhị độ”:
Thế giới Cực Lạc sung sướng, thế giới
Sa Bà khổ sở. Lúc tôi mới học Phật vào sáu
mươi năm trước, thấy kinh Vô Lượng
Thọ giảng những khổ báo của chúng sanh, lúc
đó, tôi cảm thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nói hơi phóng
đại một chút, thế gian này đâu đến nỗi
khổ sở dường ấy? Nhưng đến hiện
tại th́ sao? Nay đọc lại kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật
nói chẳng sai tí nào! Ngài nói về thế gian hiện thời
của chúng ta!
Trong thế
giới này, đúng là chẳng cần biết nghèo, giàu,
sang, hèn, quư vị hăy xét coi có ai hạnh phúc? Có ai sống
khoái lạc trong thế gian này? Người nào sống trong
thế gian này có cảm giác an toàn? T́m không ra! Nay chúng ta v́ sao
chẳng có phước báo nhân thiên như trong kinh đă dạy?
Phước báo ấy đi đâu rồi? Thật ra là có phước
báo, nhưng đă bị chính chúng ta phá hỏng! V́ sao? Chúng
ta sống chưa ra người. Điều kiện tối
thiểu để được coi là con người là “nhân giả ái nhân” (người
có ḷng nhân yêu thương con người). Sách Đệ Tử
Quy chép: “Phàm thị nhân, giai tu
ái” (phàm là người, đều phải yêu
thương), người có ḷng nhân yêu thương con
người. Người Hoa nói đến “nhân”, [tức là] nhân trong “nhân nghĩa”, quư vị thấy bên cạnh chữ
Nhân (人) là Nhị (二), đó là Nhân (仁). Nghĩ đến chính ḿnh đồng
thời nghĩ đến người khác, đó là Nhân; chỉ
nghĩ tới ḿnh, chẳng nghĩ tới ai khác, sẽ chẳng
phải là Nhân. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy
chúng ta: Chỉ có con người biết báo ân, tri ân, báo ân, con
người hiểu biết [điều này]. Báo ân th́
điều thứ nhất là báo ân cha mẹ. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng”, trong kinh, đức Phật đă dạy
chúng ta điều này. Tại Trung Quốc, đời đời
kiếp kiếp tổ tiên dạy người khác như vậy.
Nay chúng ta chẳng biết ân cha mẹ, mà cũng không biết
ơn thầy, nói thật ra, hiện thời kẻ làm cha mẹ
chẳng biết làm [tṛn trách nhiệm của cha mẹ],
luôn bận bịu với công chuyện của chính ḿnh. Con
thơ chẳng do chính ḿnh nuôi dạy, toàn là giao cho người
khác chăm bẵm, thiếu sót bổn phận đối với
con, chẳng có ơn nghĩa với con, làm sao trẻ nhỏ
biết báo ân? Thầy chẳng dạy học tṛ, chẳng
thật sự dạy. V́ thế, học tṛ cũng chẳng
biết cảm kích ơn thầy! Vấn đề này hết
sức phức tạp, v́ lẽ ǵ xă hội trở thành
nông nỗi này? Bắt chước nói theo một câu trong Phật
pháp, “là do vô lượng nhân
duyên” rất phức tạp!
Đức Phật dạy chúng ta dùng tâm
thái ǵ để sống, để ứng phó với xă hội
hiện tiền? Đức Phật nói rất hay, chính quư vị
phải nhận biết: “Tổ
tiên bất thiện (vô tri)”
(Tổ tiên chẳng lành (vô tri)), kinh Vô Lượng Thọ
đă nói như vậy. Cha mẹ chúng ta chẳng biết, v́
sao cha mẹ không biết? Ông bà không biết, chẳng dạy
họ. V́ sao ông bà không biết? Ông bà cố chẳng dạy.
Tính ngược lên từng đời một, tối thiểu
là năm đời, năm đời trước đây cha
mẹ thật sự dạy bảo. V́ lẽ nào, sau năm
đời chẳng dạy nữa? Chẳng phải là cha mẹ
không dạy, mà tại Trung Quốc, xă hội động loạn,
kể từ khi nhà Thanh sụp đổ, quân phiệt cát cứ[1],
xă hội động loạn, tiếp theo đó là chiến
tranh Trung Nhật, tám năm kháng chiến đă phá sạch [nền
tảng] gia đ́nh. V́ thế, măi cho đến ngày nay, tối
thiểu có từ bốn đời đến năm đời
thiếu sót sự giáo dục trong gia đ́nh. Gia tộc chẳng
c̣n nữa, gia tộc nay đă không có, lấy đâu ra gia
giáo? Trước thời Kháng Chiến c̣n có gia tộc, c̣n có gia giáo. Lứa tuổi chúng tôi kể ra
hết sức may mắn, sanh trưởng tại nông thôn;
nếu sanh trưởng tại đô thị, gia giáo
cũng không có, nhưng ở nông thôn th́ có, c̣n bảo tồn
nền văn hóa từ xưa. Quê hương chúng tôi lại
tương đối đặc thù một chút, vào
hai triều đại Minh - Thanh, cái nôi của Đồng
Thành học phái ở ngay tại quê tôi. Phong thái học hành
tại quê tôi rất thịnh, trong hương thôn có trường
tư thục; cho nên c̣n dính líu đôi chút với gia giáo.
Đại khái là sau năm Dân Quốc hai mươi mấy,
khoảng từ năm Dân Quốc hai mươi ba, hai
mươi bốn trở đi, không c̣n gia giáo nữa.
Tư thục ở hương thôn đổi thành trường
Tiểu Học, chẳng c̣n học cổ thư nữa; từ
đấy về sau, đương nhiên chẳng c̣n ai biết
đến chuyện này. Do vậy, h́nh thành t́nh trạng giáo
dục hiện thời đúng là đời sau kém hơn
đời trước. Hiện thời, hoàn toàn chẳng
thấy [đức dục] nữa!
Trong kinh
điển, đức Phật giảng hai cơi sướng
và khổ, nay chúng ta hoàn toàn thấu hiểu, nhưng phải
nhớ lời Phật khai thị: “Tổ tiên bất thiện (vô tri), bất thức đạo
đức, vô hữu ngữ giả” (Tổ tiên bất
thiện, chẳng biết đạo đức, không có ai
nói). Không có ai giảng cho chúng ta, chúng ta làm chuyện sai quấy,
đức Phật khoan hồng độ lượng, tha
thứ, chẳng trách móc, chẳng chỉ trích chúng ta. Chúng
ta cũng phải dùng tâm thái này để đối đăi
hết thảy chúng sanh làm ác trong hiện tại, cũng phải
giống như đức Phật khoan dung đối với
bọn họ. Bọn họ đáng
thương, vô tri mà! Nếu họ được tiếp
nhận giáo dục văn hóa truyền thống Trung Quốc
như thời cổ, sẽ chẳng làm như vậy. Hiện
thời, khắp thế giới xă hội động loạn,
tai nạn liên tiếp xảy ra, có phương pháp nào cứu
văn hay chăng? Phương pháp có chứ! Trước
đây đă từng có người hỏi tôi, người
ấy nói: Khi chúng tôi c̣n thơ, hễ gặp khó khăn sẽ
nhờ cha mẹ [hướng dẫn cách] giải quyết.
Nay chúng ta gặp khó khăn th́ phải làm sao? Vẫn theo lệ
ấy! T́m đến tổ tiên, vấn đề sẽ
được giải quyết, thật sự có thể
giải quyết. Tổ tiên không c̣n trên đời, nhưng
trí huệ và kinh nghiệm của tổ tiên truyền lại,
ở nơi đâu? Trí huệ của tổ tiên ở trong
kinh điển. Quư vị thấy những ǵ được
biên tập trong Tứ Khố Toàn Thư là kinh, sử, tử,
tập[2],
trí huệ ở trong kinh và tử, c̣n kinh nghiệm th́ sao?
Kinh nghiệm trong phần sử, quư vị t́m ṭi trong lịch
sử, chắc chắn có phương pháp giải quyết.
Tổ tiên biết rơ ràng, sợ người đời sau sơ sót, nên đă đặc biệt nêu
ra một chân lư vĩnh hằng không thay đổi, đó là
chân lư gồm tám chữ: “Kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất
nước, cai trị dân chúng, giáo dục làm đầu).
Dùng phương pháp ǵ để giải quyết vấn
đề? Giáo học! Giáo học có thể giải quyết
vấn đề. Nói theo căn bản Phật pháp, đức
Phật biết khổ và sướng, khéo léo chỉ bày khổ
và sướng, khổ do đâu mà có? Do mê hoặc, điên
đảo mà có! Quư vị mê rồi bèn làm chuyện sai trái,
sẽ bị khổ báo, mê mất rồi! Nếu quư vị
giác ngộ, tỉnh ngộ, sẽ chẳng làm chuyện ác, sẽ đoạn ác làm lành, bèn
ĺa khổ, được vui. Đây là một đại
tiền đề (antecedent), đại nguyên tắc.
Nay
chúng sanh khổ như thế, không ai dạy, dạy ǵ? Dạy
con người giác ngộ, đó là giáo dục. Không phải
là dạy khoa học, kỹ thuật, đó không phải là giáo
dục; người Trung Quốc nói tới “giáo dục” th́ giáo dục có
nghĩa là dạy con người giác ngộ, đó là giáo dục,
chúng ta phải hiểu rơ chuyện này! Cổ thánh tiên hiền
Trung Quốc dạy con người giác ngộ từ nhỏ,
hiểu mối quan hệ giữa
con người với nhau, sẽ mới có thể suốt
cuộc đời sống hạnh phúc mỹ măn, sẽ có
quan hệ cư xử hết sức tốt đẹp;
quan hệ cư xử tốt đẹp th́ gọi là “đức”. Thông hiểu mối
quan hệ nhân quả, không chỉ chẳng làm chuyện ác,
mà ngay cả ác niệm cũng chẳng dấy lên. Thiện
có thiện báo, ác có ác báo, tâm quư vị thiện, tư tưởng
thiện, ngôn ngữ thiện, hành vi thiện, quư vị suốt
đời hưởng phước báo bất tận, phước
báo do vậy mà có! Người thế gian coi hưởng thụ
vật chất là phước báo, thật ra, đó là một
phần nhỏ trong phước báo. Của cải là do
trong mạng có. Trong mạng có bao nhiêu, quư vị chẳng có
cách nào cưỡng cầu. Quư vị muốn vượt hơn
số lượng của cải đă định sẵn
trong số mạng, đó là chuyện không thể nào xảy
ra được! Sẽ chẳng làm được! Trong mạng
quư vị đă có, mong giảm bớt một chút cũng chẳng
giảm được! Trong mạng của quư vị có [của
cải, phước lộc] như thế nào? Trong đời
quá khứ đă gieo nhân, đời này quả báo hiện tiền.
Của cải là quả báo, bố thí tài vật là nhân. Đời
này là phú ông giàu có vạn ức, kiếp trước tu Tài Bố
Thí khá nhiều, đến khắp nơi phân phát của cải.
Khi thấy kẻ bần cùng cần đến, chẳng mảy
may keo kiệt, đến đời này suốt đời
được giàu có lớn, [tiền của] đưa
đến như thế đó! Thông minh, trí huệ là quả
báo, trong đời quá khứ tu pháp bố thí. Khỏe mạnh
trường thọ là quả báo, trong đời quá khứ
tu vô úy bố thí. Tu ba thứ bố thí này, sẽ đạt
được ba thứ quả báo: Tiền của, thông
minh trí huệ, và khỏe mạnh, trường thọ. Trong
đời quá khứ chẳng tu, nếu đời này may mắn,
gặp cao nhân chỉ điểm, quư vị có thể tin
tưởng, tu trong đời này vẫn kịp. Tôi là một
kẻ may mắn, khi tôi c̣n trẻ, ba điều này (phú quư,
trí huệ, thọ mạng) đều không có. Có rất nhiều
người xem tướng, đoán mạng cho tôi, tôi rất
tin lời họ: Trong mạng tôi, của cải trống
trơn, có số ăn mày, c̣n được một chút
thông minh trí huệ; suốt đời này muốn chuyển
biến phải dựa vào điều này. Chẳng vô úy bố
thí nên đoản mạng, tôi tin tưởng. Người ở
quê tôi đều biết: Đời ông cố tôi c̣n khá,
đến đời ông nội tôi gia cảnh đă lụn
bại, đến đời cha tôi nghèo túng không có mảnh
đất cắm dùi, chẳng có được một mẫu
ruộng nào ở quê nhà, không có nhà cửa để ở!
Một ḿnh tôi theo các bạn
học đến Đài Loan, gặp được văn
hóa truyền thống, gặp được Phật pháp. Chương
Gia đại sư khuyên tôi xuất gia, v́ tôi một thân một
ḿnh chẳng phải lo lắng ǵ. Số mạng tệ quá,
chẳng có của cải ǵ, Ngài dạy tôi tu; v́ thế, lăo
nhân gia dạy tôi tu Tài Bố Thí. Tôi thưa: “Con cơm c̣n
chưa đủ ăn, lấy đâu ra để Tài Bố
Thí?” Ngài hỏi tôi: “Có cắc nào hay chăng?” Một cắc
th́ được! “Một đồng tiền có hay
chăng?” Miễn cưỡng th́ một đồng cũng
được! “Anh hăy bố thí từ một cắc, một
đồng, phải có ư niệm bố thí, phải có cái tâm
này. Hễ gặp cơ hội, anh bèn tu, thật sự
làm!” Khi ấy, tôi đă hiểu, biết
Phật pháp chẳng phải là mê tín, thường đến
chùa miếu, tới chùa miếu để làm ǵ? T́m đọc
kinh sách. Do thuở ấy, chẳng thể mua kinh Phật
ngoài phố, chẳng thể mua kinh sách được, chỉ
có trong chùa miếu Phật giáo mới có kinh Phật, [nhà
chùa] có tàng kinh lâu, có thư viện, có thể mượn
đọc. Kinh điển trọng yếu như Đại
Tạng Kinh không cho mượn về, chỉ đành
lợi dụng ngày cuối tuần hay ngày nghỉ đến
đó sao chép. V́ thế, gặp gỡ mấy vị cư
sĩ, khi đó, chúng ta c̣n chưa gọi họ là cư
sĩ, cầm cuốn sổ nhỏ đến hóa duyên in
kinh, mọi người tùy hỷ bỏ ra chút ít. Gặp tôi,
tôi ghi hai cắc, ba cắc, năm cắc, tôi chỉ có sức
đến đó, thầy dạy tôi như thế. C̣n có
phóng sanh, phóng sanh cũng là góp tiền, chúng tôi cũng đóng
góp một chút như thế, bắt đầu làm. Càng làm, hoàn
cảnh càng tốt đẹp hơn. Quư vị thấy
trong mười năm gần đây, mỗi năm tôi bố
thí để làm những thiện sự gần như là một
ngàn vạn Mỹ kim, tôi nằm mộng cũng không ngờ
là càng thí càng nhiều! Pháp bố thí tăng trưởng
thông minh, trí huệ, tuổi thọ [theo số mạng của
tôi] là bốn mươi lăm tuổi, tôi đă sống
lâu hơn bốn mươi năm, đó là ǵ? Vô úy bố
thí. Vô úy bố thí thứ nhất là ăn chay, không kết oán
cừu với chúng sanh. Tôi ăn chay đến năm nay là
năm mươi chín năm, sang năm là sáu mươi
năm, ăn chay, chẳng kết oán cừu với chúng
sanh! Phóng sanh, bố thí thuốc men; bố thí thuốc men sẽ
không sanh bệnh. V́ thế, tôi bảo mọi người:
V́ sao tôi không thể bị bệnh? Không có tiền thuốc
thang, tiền thuốc thang đem bố thí hết rồi!
Nếu tôi để dành một khoản tiền chữa bệnh,
chắc chắn phải ngă bệnh, v́ sao? Quư vị đă
chuẩn bị kỹ lưỡng, khoản tiền ấy
dùng để chữa bệnh, chắc chắn quư vị phải
sanh bệnh th́ mới dùng khoản tiền ấy được!
Do vậy, tôi đem khoản tiền thuốc men tặng
cho bệnh viện để bố thí cho người nghèo
cùng mắc bệnh, giúp đỡ họ, hàng năm giúp cho
họ hơn hai mươi vạn. Do tiêu hết khoản
tiền thuốc nên khỏe mạnh, trường thọ,
sẽ không thể ngă bệnh, chẳng mắc bệnh. Những
chuyện này đều do thầy dạy, tôi tin tưởng
thầy, y giáo phụng hành, cho nên đời này sống rất
tự tại, sống rất hạnh phúc. Hạnh nghiệp
này là đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, chỉ
dạy học, chẳng làm chuyện ǵ khác!
Nay chúng
ta thật sự hiểu rơ: Chỉ có giáo học là có thể
giúp hết thảy chúng sanh ĺa khổ được vui. Khổ
lạc là quả báo, nhân là mê ngộ, giáo học giúp chúng sanh
phá mê khai ngộ, là cái quả tự nhiên, lẽ nào Ngài chẳng
ĺa khổ được vui? Nh́n lại, tôi thấy tất
cả những vị sáng lập tôn giáo đều là những
người hết sức lỗi lạc, v́ sao? Đều
là giáo học. Thuở tại thế, Gia Tô (Jesus) dạy học
ba năm, Ngài bị người ta hại chết. Nếu
chẳng bị kẻ khác hại chết, tôi tin Ngài sẽ
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời dạy
học. Mục Hăn Mặc Đức (Mohammed, Muhammad) dạy
học hai mươi bảy năm. Thời gian Phật Thích
Ca dạy học dài nhất, bốn mươi chín năm. Dạy
học vui sướng, nâng cao đức hạnh và trí huệ
của chính ḿnh, giúp người khác phá mê khai ngộ. V́ thế,
để cứu văn phong khí xă hội hiện thời, dùng phương
pháp ǵ? Dạy học. Nếu quốc gia nào hiểu rơ,
người lănh đạo đất nước giác ngộ,
hiểu rơ, lợi dụng đài truyền h́nh và mạng
Internet của đất nước để dạy những
khoa mục luân lư, đạo đức, nhân quả, những
khoa mục ấy đều giúp cho con người giác ngộ,
tôi tin tưởng quốc gia ấy tối đa sau một
năm, xă hội sẽ an định, vấn đề sẽ
được giải quyết. Trong quá khứ, tôi đă
bàn với nhiều người, trong khi giảng kinh cũng
nhắc tới, hiện thời, quốc gia cần loại
nhân tài nào bức thiết nhất? Giáo viên giáo dục truyền
thống. Nếu đất nước có thể bồi dưỡng
năm mươi, sáu mươi giáo viên, thiết lập một
đài truyền h́nh chuyên phát sóng trong hai mươi bốn giờ,
th́ sức mạnh của năm mươi, sáu mươi
giáo viên ấy sẽ hơn năm trăm vạn đại
quân, trong thời gian một năm có thể đưa quốc
gia xă hội theo đúng quỹ đạo. Ai nấy đều
giác ngộ, tai nạn sẽ hóa giải, ngay cả thiên tai
cũng chẳng c̣n! Hết sức đáng tiếc là hiện
thời nhiệm kỳ tuyển cử [của Tổng Thống
hay Thủ Tướng ở] các quốc gia Tây Phương
là bốn năm, đầu óc họ luôn nghĩ cách tranh thủ
phiếu bầu cho nhiệm kỳ tới, chẳng hề
nghĩ đến chuyện này, rất đáng tiếc! Hễ
tôi có cơ hội vẫn khuyên họ, đừng bận
tâm đến phiếu bầu, nhiệm kỳ kế tiếp
đắc cử hay không chẳng sao cả, chính ḿnh trong thời
gian bốn năm hăy khéo làm tốt chuyện này, công đức
to lắm! Công đức không ǵ có thể sánh bằng,
hơn đắc cử nhiều lắm, đây là chuyện
chúng ta phải nên làm. Do vậy, đối với “diệu hiển khổ lạc”,
nay chúng ta mới thật sự thấu hiểu dụng tâm
giảng kinh của đức Thế Tôn từ hơn hai ngàn
năm trăm năm trước. Dụng tâm chân thật nhằm
khích phát, cổ vũ chúng sanh đang mê muội, ch́m đắm.
Chúng ta đă giác ngộ, hăy giúp người khác giác ngộ.
Chúng ta biết phương pháp này, phải giúp đỡ những
vị đại đức có địa vị, có cơ duyên.
“Thử đại hỏa tụ,
bỉ thanh lương tŕ” (cơi này là đống lửa lớn,
cơi kia là ao thanh lương), “thử”
là thế giới của chúng ta. Thế giới này quá nhiều
khổ nạn, “đại hỏa
tụ” là giống như địa ngục. “Bỉ” là Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nơi đó là ao thanh lương. Chúng
ta học tập kinh Phật, cũng thường nói đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, thế giới
ấy có khác ǵ thế giới của chúng ta hay chăng? Chẳng
sai khác mảy may! V́ lẽ ǵ nơi này là đống lửa
lớn, nơi kia là ao thanh lương? Cư dân có tâm tư
khác nhau. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu
thế giới Cực Lạc, như trong kinh Di Đà
đă nói: Thế giới ấy là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”,
người trong thế giới ấy như thế nào?
Thượng thiện. “Thiện”
có tiêu chuẩn, tức là Thập Thiện Nghiệp, chẳng
sát sanh, không ăn trộm, chẳng tà dâm, chẳng nói dối,
chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, chẳng
nói thêu dệt, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, người
thực hiện viên măn mười điều này chính là thượng
thiện! Ai nấy đều như vậy, nên thế giới
đó tốt đẹp. Trong kinh điển, đức Phật
thường dạy: “Tướng
do tâm sanh, cảnh tùy tâm chuyển”. Con người ở
bên ấy mang tấm ḷng thượng thiện, nên chẳng
có ǵ bất hảo, tướng mạo con người
đẹp đẽ, hoàn cảnh sống tốt đẹp,
tai nạn ǵ cũng đều không có. Nh́n lại thế giới
của chúng ta th́ sao? Cũng là “thượng”,
chẳng khác ǵ thế giới Cực Lạc, nhưng chẳng
phải là thiện, mà là ác, sát sanh, trộm cắp, tà dâm,
cho đến tham, sân, si, cũng là làm rất viên măn, cho nên
có phiền phức đưa tới liền! V́ thế, xă
hội động loạn, thiên tai, nhân họa liên tiếp
xảy ra; bới tung cả thế giới, phú quư hay bần
tiện đều chẳng có cảm giác an toàn, đều
chẳng cảm thấy hạnh phúc, quư vị nói thử
xem thế giới chúng ta đang sống đây có đáng
thương quá hay chăng? Chúng ta có cảm giác an toàn
đôi chút, không bị sợ hăi, có cảm giác hạnh phúc,
là v́ sao? Chúng ta chỉ biết chắc chúng ta sống sót
ngày hôm nay, chẳng nghĩ đến ngày mai, cho nên hôm nay phải
rất hạnh phúc. Chuyện đáng nên làm bèn thực hiện
tốt đẹp, toàn bộ những chuyện chẳng
nên làm đều buông xuống, chẳng lo nghĩ. Nếu nghĩ
đến ngày mai, sang năm, năm sau, sẽ rắc rối
to, quyết định không có ư niệm này, niệm niệm
tưởng sanh về thế giới Cực Lạc, niệm
niệm nghĩ tới A Di Đà Phật. Nói chung, ta có một
ngày để nghĩ đến Ngài, chẳng nghĩ chi
khác! Nghĩ nhớ A Di Đà Phật là thượng thiện,
A Di Đà Phật là bậc thượng thiện, Thập Thiện
nghiệp đều viên măn.
“Bảo liên tại tiền,
đao sơn tại hậu” (sen báu trước mặt,
núi đao sau lưng), chuyện này là do chúng ta chọn lựa.
Chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ ao sen bảy báu ở trước mặt. Nếu không
đến được thế giới Cực Lạc, vẫn
muốn ở lại thế giới này, th́ đao sơn sẽ
ở sau lưng, đó là ǵ? Địa ngục! Đao sơn
địa ngục đấy! Quư vị tiến lên trước,
hay lùi về sau? Quư vị hăy liễu giải chân tướng
sự thật này. “Ư thị,
tự nhiên sanh khởi thắng nguyện, yếm ly Sa Bà, cầu
sanh Cực Lạc” (Do vậy, tự nhiên sanh khởi ư
nguyện thù thắng, chán ĺa Sa Bà, cầu sanh Cực Lạc).
Quư vị phải thật sự biết, v́ sao? Th́ mới
có thể buông xuống, chẳng c̣n tham luyến thế gian
này, chẳng c̣n tạo nghiệp luân hồi. Không chỉ chẳng
tạo nghiệp luân hồi, mà cái tâm luân hồi cũng phải
đoạn. Đoạn cái tâm luân hồi như thế nào?
Đặt cái tâm của A Di Đà Phật ở chính giữa
[tâm ḿnh], hết thảy các tạp niệm khác đều vứt
bỏ, tâm luân hồi sẽ chẳng c̣n! Tâm quư vị sẽ
là tâm A Di Đà Phật. V́ thế, đối với khóa tụng
sáng tối của các đồng học Tịnh Tông chúng
ta, trong khóa sáng, chúng ta chưa thể niệm toàn bộ kinh
Vô Lượng Thọ, tôi khuyên mọi người trong khóa
sáng hăy niệm phẩm thứ sáu, tức phần bốn
mươi tám nguyện. Phải đem bổn nguyện của
A Di Đà Phật biến thành bổn nguyện của chính
ḿnh. Ta và A Di Đà Phật đồng tâm, đồng nguyện,
đồng đức, đồng hạnh, há c̣n chẳng
thể văng sanh ư? Chắc chắn văng sanh! Khóa tối, chúng
ta chọn từ phẩm ba mươi hai tới phẩm ba
mươi bảy nhằm sám trừ nghiệp chướng,
đoạn kinh văn này giảng ǵ? Giảng Ngũ Giới,
Thập Thiện. Dùng tiêu chuẩn này để tu chỉnh khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi tạo tác của
chúng ta. Phải thật sự hành Thập Thiện, phải
thật sự đoạn bất thiện. Đọc hằng
ngày, học hằng ngày, giảng hằng ngày, quư vị nói
có phải là sung sướng, hạnh phúc lắm hay không? Chẳng
phải là giảng cho người khác nghe, mà là giảng cho
chính ḿnh nghe; người khác là bàng thính (nghe ké), chính ḿnh thật
sự học. Mỗi ngày nâng cao cảnh giới và đức
hạnh của chính ḿnh, tăng trưởng trí huệ của
chính ḿnh, trong thế gian này c̣n có chuyện ǵ tốt đẹp
hơn chuyện này? Thật sự thông đạt đạo
lư, thật sự hiểu rơ, tự nhiên quư vị có thể
buông xuống, buông Sa Bà khổ sở xuống, đạt
được Cực Lạc sung sướng. Thật tâm
cầu sanh Cực Lạc, chẳng giả!
“Kư sanh tín nguyện, cánh tŕ danh hiệu,
tiện đắc độ thoát” (đă sanh tín nguyện,
lại c̣n tŕ danh hiệu, liền được độ
thoát), chân tín! V́ sao người niệm Phật chẳng thể
văng sanh? Ḷng tin chẳng đủ, người ấy hoài
nghi! V́ sao hoài nghi? Liễu giải Lư Sự chưa đủ
thấu triệt. V́ sao đức Phật giảng kinh, thuyết
pháp mỗi ngày? Giảng kinh, thuyết pháp nhằm mục
đích giúp mọi người đoạn nghi, sanh tín. Nếu
là chân tín, sẽ có thể chẳng cần nghe kinh, mà cũng
có thể chẳng cần niệm kinh. Phải hiểu
đức Phật giảng kinh nhằm mục đích giúp
chúng ta đoạn nghi rồi mới sanh tín. Sau khi đoạn
nghi, sanh tín, quư vị thật sự phát nguyện, hiểu
luân hồi thật sự khổ, sở,
chẳng thể luân hồi nữa! Trong dĩ văng đă luân
hồi nhiều như vậy, chẳng có cách nào tín toán số
năm, luận tính kiếp số sẽ là vô lượng
kiếp, khổ không thể nói nổi! Nay đă hiểu rơ,
minh bạch rồi, ngày hôm nay đă gặp cơ hội
này, nhất định có thể thoát ra, nương theo pháp
môn này sẽ thật sự có thể vượt thoát. Chẳng
dễ ǵ gặp được dịp này, cư sĩ Bành Tế
Thanh vào đời Thanh trước kia đă nói: “Hy hữu nan phùng chi nhất nhật”
(một ngày hiếm có khó gặp), hay như trong phần
trước đă nói: “Vô lượng
kiếp lai, hy hữu nan phùng” (hiếm có, khó gặp từ
vô lượng kiếp đến nay), ngày hôm nay quư vị
đă gặp, nếu có thể nắm chắc, sẽ thành
Phật ngay ngày hôm nay! “Tiện
đắc độ thoát” (liền được độ
thoát): Độ thoát là vĩnh viễn thoát ly mười
pháp giới, không chỉ là lục đạo, mà là thoát ly mười
pháp giới. Thế giới Cực Lạc không thuộc
trong mười pháp giới, hoành siêu mà!
“Sanh bỉ quốc dĩ” (sanh
sang cơi ấy), quư vị đă đến thế giới Cực
Lạc, “kiến Phật văn
pháp, đắc vô thượng ngộ” (thấy Phật,
nghe pháp, đắc vô thượng ngộ), chúng ta niệm
niệm mong cầu điều này. Tới thế giới Cực
Lạc gặp A Di Đà Phật, đồng
thời gặp thập phương tam thế hết thảy
chư Phật. Kinh Di Đà mà quư vị thọ tŕ do ngài
Cưu Ma La Thập dịch, trong bản dịch này ghi sáu phương
Phật; bản dịch của Huyền Trang đại
sư ghi mười phương Phật. Kinh Vô Lượng
Thọ ghi mười phương Phật; thập
phương tam thế hết thảy chư Phật quư vị
đều thấy. V́ sao? Thế giới Cực Lạc không
có các chiều không gian và thời gian, nhưng trong thế
gian này th́ có các chiều không gian và thời gian, c̣n trong thế
giới Cực Lạc th́ không có. Không có thời gian th́ quá
khứ và vị lai quư vị đều thấy; không có
không gian, sẽ chẳng có khoảng cách, khoảng cách xa
đến mấy vẫn ở ngay trước mặt, cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, quư vị thân
cận hết thảy chư Phật Như Lai, mười
phương thế giới chẳng tốn một tí công sức
nào, chẳng mất công giở chân, chẳng tốn sức
bước một bước nào, mười phương
Phật đều ở tại trước mặt. Khoa học
kỹ thuật hiện thời vẫn chưa đạt tới
mức này! Nay chúng ta do màn h́nh TV, cảnh tượng nơi
xa xôi cũng có thể thấy giống như đang đối
diện, nhưng cảnh tượng ấy là cảnh tượng
phẳng ĺ, người trong cảnh tượng ấy chẳng
thể bước ra tṛ chuyện với ta, c̣n thế giới
Tây Phương là thật sự đối diện. Do vậy,
chúng tôi nói: Khoa học c̣n thua thế giới Cực Lạc
rất xa! Tôi không ngừng cổ vũ, khuyến khích các khoa
học gia hăy tới thế giới Cực Lạc du học,
A Di Đà Phật là đại khoa học gia, thật sự
lỗi lạc, phải theo Ngài học tập. Thấy Phật
có lợi ǵ? Nghe Phật thuyết pháp chúng ta sẽ khai ngộ,
“đắc vô thượng ngộ”,
vô thượng ngộ là khai ngộ viên măn đến tột
cùng. Đó là ǵ? Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật;
v́ vậy, tới thế giới Cực Lạc thành Phật
rất dễ dàng. Quư vị có quá nhiều cơ hội, mỗi
ngày đều tiếp xúc vô lượng vô biên chư Phật
Như Lai, cúng dường các Ngài, lễ bái, tu phước
báo, nghe kinh là khai trí huệ. Đến thế giới Cực
Lạc để làm ǵ? Chính là để làm hai chuyện ấy!
“Do hữu niệm nhi nhập vô niệm,
nhân văng sanh nhi khế vô sanh” (do hữu niệm mà nhập
vô niệm, do văng sanh mà khế nhập vô sanh). Hữu niệm
là phàm phu, vô niệm là Phật; hữu niệm là có niệm
ǵ? Khởi tâm động niệm, kinh Đại Thừa gọi
khởi tâm động niệm là Vô Minh phiền năo, phân biệt
là Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước là hữu niệm, những thứ này chẳng
c̣n nữa th́ người ấy đă thành Phật. Lục
căn của Phật đối trước cảnh giới
lục trần chẳng khởi tâm, chẳng động niệm,
quư vị chẳng thể nói Ngài vô niệm. Ngài giảng
kinh, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, chẳng thể nói Ngài hữu
niệm. Do nguyên nhân ǵ? Chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm là thanh tịnh tịch diệt, tự tánh bản
thể hiện tiền; chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng.
Ứng là khởi tác dụng, tác dụng có thể hiện
tướng. Quư vị có thể thấy Phật, Bồ Tát,
có thể thân cận Phật, Bồ Tát, hễ có nghi hoặc,
Phật, Bồ Tát có thể giúp quư vị giải quyết,
đấy là từ Thể khởi Dụng. Thể là thật,
vĩnh hằng bất diệt; Tướng là giả, sanh
diệt trong từng sát-na. V́ thế, chẳng thể nói Tướng
là có, chẳng thể nói Thể là không! Những khái niệm
này đều là sự tưởng tượng hư vọng
của lục đạo chúng sanh, chúng ta quá quen thuộc với
chúng, cứ tưởng chúng là những chuyện rất b́nh
thường. Thật ra, hoàn toàn sai lầm! Do v́ những thứ
này, nên không thoát khỏi luân hồi trong lục đạo, hăy
nên buông xuống; nói dễ, làm khó! Tịnh Tông thuận tiện,
tức là dùng một câu danh hiệu “A Di Đà Phật” để
thay thế tất cả những quan niệm hư huyễn.
Ư niệm vừa mới dấy lên, bèn A Di Đà Phật, chẳng
cho có ư niệm thứ hai. V́ sao? Phật hiệu là tín hiệu
liên lạc giữa chúng ta ở nơi đây và Tây
Phương Cực Lạc thế giới đạo
sư A Di Đà Phật. Quư vị niệm câu Phật hiệu
này để liên lạc với Ngài. Liên lạc mỗi ngày,
thời thời khắc khắc liên lạc, vứt bỏ
hết những thứ khác, chúng ta dùng đường dây
[liên lạc] này sẽ thông suốt, ắt có cảm ứng
đạo giao. Nay chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật là
hữu niệm, khi tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới sẽ chứng đắc vô niệm. Do văng sanh mà
khế nhập vô sanh, do phương pháp này ta bèn văng sanh, tới
thế giới Cực Lạc bèn chứng đắc vô sanh.
Vô sanh là chẳng c̣n sanh tử, Tây Phương Cực Lạc
thế giới quả thật là như vậy. “Đốn ngộ thử tâm, bổn
lai b́nh đẳng” (đốn ngộ cái tâm này vốn b́nh
đẳng), b́nh đẳng là Phật tâm, quư vị thật
sự t́m được chính ḿnh.
“Đường Hải Đông Nguyên
Hiểu sư vân” (sư Nguyên Hiểu ở Hải Đông
vào đời Đường đă nói), Đường là
nhà Đường, Hải Đông là Hàn Quốc hiện thời.
Hàn Quốc có một vị pháp sư tên là Nguyên Hiểu (Wonhyo)[3],
Ngài sang Trung Quốc học, thân cận Thiện Đạo
đại sư, làm đệ tử của Thiện Đạo
đại sư, sau khi trở về nước giáo hóa một
phương, là bậc đại đức của Tịnh
Tông Hàn Quốc. Ngài nói như sau: “Tứ thập bát nguyện, tiên vị phàm phu, kiêm vị
tam thừa thánh nhân” (Bốn mươi tám nguyện trước
là v́ phàm phu, sau là v́ kèm thêm thánh nhân trong tam thừa). Nói rất
hay, nếu chẳng khế nhập cảnh giới sẽ
không thể nói ra lời này! Từ cảnh giới này, chúng
ta cảm ơn Phật Di Đà, Phật Thích Ca vô hạn, v́
sao? Không do pháp môn này, lũ phàm phu chúng ta chẳng thể
thành tựu; do pháp môn này mà thành tựu của chúng ta vượt
trỗi tam thừa thánh nhân. “Tam
thừa”: Đại Thừa là Bồ Tát, Trung Thừa là
Bích Chi Phật, Tiểu Thừa là A La Hán; văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới vượt trỗi
các vị ấy. Các Ngài gặp nhiều khó khăn hơn
chúng ta, v́ sao? Các Ngài có chấp trước, có Sở Tri Chướng,
chẳng tin tưởng pháp môn này. Tuy chúng ta có chướng
ngại, nhưng do thiện căn đời trước
sâu dầy, nói thật thà là chúng ta vừa nghe pháp môn này bèn hoan
hỷ, vừa nghe đă muốn thật sự học, thật
sự muốn sang thế giới Cực Lạc. Tuyệt
đối chẳng phải chỉ trong một đời này,
mà là trong quá khứ chắc chắn đă học pháp môn này.
V́ thế, vừa tiếp xúc, chủng tử thiện
căn trong A Lại Da bèn dẫn khởi sự tu tập
trong đời trước, nên mới sanh khởi sức
mạnh khiến tín nguyện kiên cố. “Khả kiến Tịnh Độ Tông chi diệu, thủ
vi phàm phu đắc độ” (Có thể thấy điều
mầu nhiệm của Tịnh Độ Tông là làm cho phàm
phu đắc độ trước tiên). Đây là sự
hay khéo của Tịnh Tông.
Chúng ta xem
tiếp đoạn thứ ba: “Tha
lực diệu pháp, thiện hộ hành nhân” (diệu pháp
tha lực, khéo hộ tŕ hành nhân). “Kỳ tha pháp môn toàn bằng tự lực, mạt thế
tu hành đa chư chướng nạn” (những pháp môn
khác hoàn toàn cậy vào tự lực, tu hành trong đời Mạt
có lắm chướng nạn). Chúng ta phải ghi nhớ câu
nói gồm mười sáu chữ này! Tám vạn bốn ngàn
pháp môn, pháp môn nào cũng đều phải cậy vào tự
lực, tự lực là ǵ? Đoạn phiền năo, chứng
Bồ Đề. Trong thời đại Mạt Pháp hiện
tại, từ nay về sau, tu hành quả thật khó
khăn. Kế đó, sách nêu ra thí dụ: “Lệ như Lăng Nghiêm trung, quảng minh hành nhân
ư Thiền Quán trung chi ngũ thập chủng Ấm Ma
can nhiễu” (Chẳng hạn như trong kinh Lăng
Nghiêm đă giảng tường tận người tu Thiền
Quán bị năm mươi thứ Ấm Ma quấy nhiễu).
Lần này, chúng tôi không giảng về năm mươi thứ
Ấm Ma nữa; nếu giảng năm mươi thứ Ấm
Ma, có lẽ mất hai mươi tiếng đồng hồ
vẫn chưa giảng xong. Nếu quư vị muốn biết,
hăy xem kinh Lăng Nghiêm. Đọc kinh Lăng Nghiêm không hiểu
th́ coi chú giải. Chú giải kinh Lăng Nghiêm rất nhiều;
tương đối đơn giản, dễ hiểu th́
có thể đọc bộ Giảng Nghĩa của pháp
sư Viên Anh trong thời cận đại. “Hành nhân chánh kiến sảo thất,
tiện hăm ma vơng” (hành nhân hơi mất chánh kiến, liền
vướng vào lưới ma), chúng ta phải đặc biệt
lưu ư câu này. Năm mươi thứ Ấm Ma, Ấm là
Ngũ Ấm, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
trong mỗi Ấm có mười thứ ma, [nên thành] năm
mươi thứ. Quư vị thấy Sắc chính là cảnh
giới hữu h́nh bên ngoài, cũng có thể nói là ngoại
giới dụ dỗ, mê hoặc; bốn mươi thứ
kia là phiền năo trong nội tâm quư vị. Hễ quư vị bị
dụ dỗ, mê hoặc, sẽ bị mắc lừa, chánh
kiến vừa bị mất đôi chút bèn biến thành ma tuy
quư vị vốn là Phật. Chánh kiến là ǵ? Mỗi tông
phái khác nhau, mỗi pháp môn khác nhau, mỗi tông phái, pháp môn có
chánh kiến khác biệt! Chánh kiến trong pháp môn Tịnh Tông
là một câu Di Đà, chánh tri, chánh kiến. Quên mất A Di
Đà Phật, tiếng tăm, lợi dưỡng dấy
lên, xong rồi! Quư vị rớt vào ma giới. Quư vị phải
biết: Đi theo con đường Tây Phương Cực
Lạc thế giới này, nếu bước vào ngơ rẽ
mà chẳng lập tức quay lại, chắc chắn sẽ
mê mất phương hướng, đúng là muôn kiếp chẳng
trở lại được! Trong một vạn kiếp,
quư vị có thể t́m đường trở về hay chăng?
Có vấn đề, chưa chắc đă có thể t́m được
lối về. Bởi lẽ, trong quá khứ, ḷng người
thiện lương, phong tục xă hội thuần hậu,
tu hành rất dễ dàng, bên ngoài chẳng dụ dỗ, mê hoặc
như trong hiện tại. Hiện thời, sức dụ
dỗ, mê hoặc không chỉ cao hơn quá khứ một trăm
lần, đáng sợ quá! Các đồng tu học Phật đă
lâu, đă từng học kinh Lăng Nghiêm, học kinh Đại
Thừa đều biết [điều này], nhưng có thể
đối phó những cảnh giới ấy hay không, rất
khó nói! V́ thế, người tu hành bị đọa trong cảnh
giới ma quá nhiều!
Ở đây,
cụ Hoàng nêu một ví dụ, quư vị phải từ ví dụ
này mà răn dè, đây là nói về cảnh giới hiện
tiền, khi cảnh giới Phật hiện tiền: “Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh
giới, nhược tác thánh giải, tức thọ quần
tà” (Nếu [thấy cảnh giới thù thắng hiện
tiền] tâm chẳng nghĩ là đă chứng thánh th́ cảnh
giới ấy gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu
cho là ta đă chứng thánh quả, liền rớt vào các loài
tà ma, ngoại đạo). Nêu ra thí dụ này để nói điều
ǵ? Vừa hơi mất chánh niệm, quư vị liền đọa
lạc. Trong xă hội hiện thời, cảnh giới này rất
nhiều, thấy tướng lành, thấy A Di Đà Phật,
thấy các cơi Phật, thật sự có người trông thấy,
chẳng giả, thậm chí có mấy người cùng thấy.
Trong xă hội hiện tại, c̣n có những trường hợp
quỷ thần dựa thân rất nhiều, Trung Quốc lẫn
ngoại quốc đều là như thế, những hiện
tượng do ảo giác sanh ra cũng rất nhiều.
Trong ấy có rất nhiều cảnh giới Phật, đó
là thật hay giả? Sau khi quư vị thấy mà chẳng động
tâm th́ cảnh giới ấy là thật. Nếu khi quư vị
thấy cảnh giới ấy bèn động tâm, cho là thật
th́ sai mất rồi! Quư vị phải biết: Hết thảy
cảnh giới hiện tiền, quư vị vẫn như
như bất động, những cảnh giới ấy
sẽ là thật. Nếu cảnh giới hiện tiền,
tín tâm dao động, khởi vọng tưởng, quư vị
đă sai mất rồi, bị lừa rồi, cảnh giới
ấy là cảnh giới ma! Do vậy, cảnh giới là ma
hay là Phật chẳng do bên ngoài, mà do nội tâm quyết
định. Nội tâm quư vị vẫn là Giới - Định
- Huệ làm chủ th́ cảnh giới bên ngoài đều là
cảnh giới Phật; cảnh giới ma vẫn là cảnh
giới Phật. Nếu quư vị khởi tâm động niệm,
hoặc sanh tâm hoan hỷ, hoặc sanh tâm chán ngán, đều
sai cả! Tâm quư vị bị động, hoặc dấy lên
tham, sân, si, mạn, sai mất rồi! Đừng nên bị
cảnh giới bên ngoài lay động. Người ta nói quư
vị là vị Phật nào tái lai mà quư vị thật sự
nghĩ đúng như vậy th́ xong mất rồi, đă đọa
vào cảnh ma mất rồi!
Do vậy,
trong giáo pháp Đại Thừa Trung Quốc đă có những
tiền lệ, Bồ Tát có thể ứng hóa trên thế
gian hay không? Có thể! Có thật hay chăng? Nếu là thật,
hễ thân phận bị bộc lộ, bèn đi ngay lập
tức, thật đấy, chẳng giả đâu! Thân phận
bị bộc lộ mà vẫn không tịch, dùng lời lẽ
yêu mị để mê hoặc người khác, đó là đồ
giả, chẳng thật! Thuở Ấn Quang đại
sư tại thế, có người nói Ngài là Đại Thế
Chí Bồ Tát tái lai, lăo nhân gia quyết liệt phủ nhận,
cảnh cáo nghiêm khắc. Đó là một cô bé, chẳng tin Phật,
là học tṛ Sơ Trung (cấp Hai, Trung Học đệ nhất
cấp), mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát bảo cô
ta: “Gần đây, Đại Thế Chí Bồ Tát đang giảng
kinh ở chỗ các ngươi”, bảo cô ta hăy đến
nghe. Cô bé hỏi Đại Thế Chí là ai? Pháp sư Ấn
Quang! Do vậy, cả nhà hoan hỷ đến gặp pháp
sư Ấn Quang, kể lại giấc mộng, bị pháp
sư Ấn Quang quở mắng một trận: Sau này mà ngươi
c̣n nói như vậy nữa, chẳng cho ngươi vào cửa,
nên chẳng dám nói nữa! Tới khi pháp sư Ấn Quang viên
tịch, cô ta viết một bài, được in trong bộ
Ấn Quang Đại Sư Vĩnh Tư Lục, thật đấy,
chẳng giả! Quán Âm Bồ Tát bảo cô ta, pháp sư Ấn
Quang trụ thế gần như chỉ c̣n bốn năm.
Quả thật, bốn năm sau Ngài văng sanh, nên cô ta mới
nói ra chuyện này. Vào thời cổ, ở Trung Quốc, thật
sự có Bố Đại ḥa thượng là người đời
Tống, ở chùa Tuyết Đậu huyện Phụng Hóa,
tỉnh Chiết Giang. Đây là một nhân vật truyền
kỳ, v́ chẳng ai biết t́nh h́nh lúc Ngài chưa xuất
gia, chẳng ai biết cả! Chỉ thấy có một vị
ḥa thượng như thế, thường hóa duyên bên ngoài,
cầm một chiếc túi lớn, được người
khác cúng dường, Ngài cũng không phân loại, mà cũng
chẳng nh́n tới, hễ được cúng dường
bèn tống vào túi, vác đi, cho nên người ta gọi Ngài
là Bố Đại ḥa thượng (ḥa thượng túi vải).
Chẳng ai biết pháp danh của Ngài, [nên cứ kêu là] Bố
Đại ḥa thượng. Khi văng sanh, Ngài bảo mọi
người Ngài là Di Lặc Bồ Tát tái lai; nói xong, Ngài tịch,
thật sự ra đi! V́ thế, người Hoa tạc tượng
Di Lặc Bồ Tát đều tạc tượng Bố
Đại ḥa thượng, Ngài thật sự có bản lănh!
Quư vị thấy các vị Hàn Sơn, Thập Đắc, Phong
Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai: Phong Can là A Di Đà Phật
tái lai, Hàn Sơn, Thập Đắc là Văn Thù, Phổ Hiền.
Khi thân phận bị vạch trần, hai vị Hàn Sơn và
Thập Đắc chạy lên núi, rất nhiều người
hướng về các Ngài lễ bái, núi bèn nứt ra, các Ngài
đi vào, núi bèn khép lại, chẳng thấy đâu nữa!
Ḥa thượng Phong Can là A Di Đà Phật, sau khi thân phận
bị bộc lộ, bèn mất tăm tung tích, chẳng biết
đi đâu rồi! Cổ nhân có những trường hợp
như thế nhằm giữ chữ tín với đời
sau!
Ứng
hóa thân đúng là thường có, trăm ngàn ức hóa thân; một
vị Phật, một vị Bồ Tát có vô số hóa thân. V́
thế, quư vị gặp các Ngài, nếu giống như giáo
pháp Đại Thừa đă nói “chớ nên nghĩ các Ngài là
có, mà cũng đừng nghĩ các Ngài là không”, tâm quư vị
vĩnh viễn giữ được sự thanh tịnh,
vĩnh viễn giữ được ḷng cung kính, đó là
đúng. V́ sao? Đức Phật nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh vốn là
Phật”. Chúng ta cung kính A Di Đà Phật, cung kính Quán Âm Bồ
Tát như thế nào, hăy dùng tấm ḷng cung kính giống hệt
như vậy để cung kính hết thảy chúng sanh, v́
sao? Họ đều là Phật! Quư vị nói tới bậc
tái lai, có ai chẳng phải là bậc tái lai? Người vào
trong cơi Phật đều là bậc tái lai, người từ
ngạ quỷ đạo thoát ra cũng là bậc tái lai; ai
cũng là bậc tái lai, có ǵ hiếm lạ đâu? [Chỉ
khác nhau ở chỗ là] từ đường nào tái lai! Trong
hiện tại, điều mấu chốt thật sự quan
trọng là chúng ta đừng đánh mất chánh niệm, trong
mười hai thời, Phật hiệu chẳng gián đoạn,
sẽ chẳng mất chánh niệm. Hễ Phật hiệu
bị gián đoạn sẽ gọi là “thất niệm” (mất chánh niệm), bỏ lỡ
chánh niệm. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta:
“Đô nhiếp lục căn,
tịnh niệm tương kế”, nhiếp trọn sáu
căn, thâu hồi cái tâm phan duyên lại, đó chính là “phản văn văn tự tánh,
tánh thành vô thượng đạo” (xoay cái Nghe lại để
nghe tự tánh, tánh thành vô thượng đạo) của Quán
Thế Âm Bồ Tát. “Tịnh niệm”:
Tịnh là “tịnh” trong “thanh tịnh”, chẳng hoài nghi, chẳng
xen tạp là Tịnh, “tương
kế” là chẳng gián đoạn. Vĩnh viễn giữ
ǵn tịnh niệm tiếp nối, đó là chánh niệm
trong Tịnh Tông. Đối với bất cứ cảnh
giới nào hiện tiền, kinh Kim Cang có một câu nói rất
hay: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, chẳng bị ngoại cảnh
nhiễu loạn, đó là đúng! Do vậy, bất cứ
cảnh giới Phật hay Bồ Tát nào hiện tiền, đều
biết: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”, sẽ là thiện
cảnh giới, hảo cảnh giới. Tâm quư vị chẳng
bị cảnh giới ấy xoay chuyển th́ sẽ là cảnh
giới tốt đẹp. Nếu quư vị nghĩ: “Ta trông
thấy, tức là công phu của ta ngon lành lắm, các ngươi
thua ta, ta thấy Phật, ta trông thấy Phật, tuy các ngươi
tu hành nhưng vẫn chưa thấy!”, tự nghĩ ḿnh ghê
gớm lắm, bị lừa mất rồi, đă bị
ma chuyển rồi!
Do vậy,
vào thời Tấn, Sơ Tổ Huệ Viễn đại
sư hướng dẫn một trăm hai mươi ba người
cùng chung chí hướng, thảy đều tu Tịnh Độ,
đều cầu văng sanh, lấy Hổ Khê làm giới hạn,
không ra khỏi giới tuyến ấy, phát nguyện văng
sanh tại nơi ấy. Quả thật, một trăm hai
mươi người ai nấy đều văng sanh, đúng
là tuyệt diệu! Văng sanh đương nhiên có kẻ trước
người sau. Khi Viễn Công đại sư văng sanh, Ngài
thấy A Di Đà Phật và những đồng tu trong Niệm
Phật Đường ấy đă văng sanh trước
theo A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn Ngài. Ngài
bảo đại chúng: “A Di
Đà Phật đến đón ta, ta sẽ văng sanh trong ngày
hôm nay”. Ngài lại bảo mọi người: Trong thời
gian Ngài ở trên núi ấy, trong quá khứ đă ba lần
thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, lần
này là lần thứ tư, nhưng chẳng kể với
ai! Người khác hỏi Ngài: “Thế giới Cực Lạc
như thế nào?” Ngài nói: “Hoàn toàn giống như trong kinh điển
đă giảng”. Quư vị phải biết kinh điển
khi đó chính là kinh Vô Lượng Thọ, Viễn Công đại
sư mở Niệm Phật Đường do dựa theo
một quyển kinh này! V́ sao? Kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật vẫn chưa được dịch ra, có
thể là đă được truyền đến Trung Quốc
rồi nhưng vẫn chưa dịch sang tiếng Hán, cho nên
Ngài chỉ dựa theo kinh Vô Lượng Thọ. Tổ
sư đă nêu gương đúng đắn cho chúng ta, dù
thấy cảnh giới tốt đẹp đến đâu
đi nữa vẫn chẳng nói, trong tâm chính ḿnh như
như bất động, càng thêm dụng công, đấy là
cảnh giới tốt. Công phu của quư vị đạt
mức kha khá, Phật, Bồ Tát bèn thị hiện cảnh
giới để làm ǵ? Nhằm khảo nghiệm quư vị,
quư vị như như bất động, công phu sẽ tăng
cao. Nếu quư vị động tâm, ngay lập tức bị
giáng cấp: Vẫn chưa chịu nổi khảo nghiệm,
chưa đủ sức qua nổi cái ải này! V́ thế,
hai câu nói này của kinh Lăng Nghiêm rất trọng yếu!
“Khả kiến hành nhân sảo hữu
chấp trước, tiện thất chánh kiến, tức
nhập ma đồ, cầu thăng phản giáng, thậm
chí đọa nhập Nê Lê” (Đủ thấy hành nhân hễ
có chấp trước đôi chút bèn mất chánh kiến, liền
lọt vào đường ma, cầu thăng lên, đâm ra đọa
xuống, thậm chí rớt vào địa ngục). Nê Lê (Naraka,
Niraya) là địa ngục, rất đáng sợ! Hiểu
rơ đạo lư này, người tu hành thật sự sẽ
giữ vững chánh niệm; thuận cảnh, [tức là] cảnh
giới của Phật, Bồ Tát hiện tiền chẳng
động tâm, cảnh giới yêu ma quỷ quái hiện tiền
cũng không động tâm. Quư vị thấy địa ngục
hiện tiền, vẫn là một câu “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, chẳng để ư nó, vẫn giữ chặt
một câu A Di Đà Phật, ngay lập tức cảnh giới
chẳng c̣n! Chánh niệm là ǵ? Không bị cảnh giới bên
ngoài ảnh hưởng th́ gọi là “chánh niệm”. Người
này xử tốt với ta, ta rất cảm kích, tri ân, báo
ân, hết thảy tùy duyên; chớ nên dấy lên ư nghĩ: “Ta
nhất định phải báo đáp ngươi như thế
nào!”, [nghĩ như vậy] là xong rồi, quư vị lại
bị đọa lạc. Người này có thù oán với
ta, hận ta, chẳng cần phải báo thù. Nói chung, đều
coi những người ấy như chư Phật, Bồ
Tát. Các Ngài xử tốt với ta nhằm khảo nghiệm
ta, xem ta có tham luyến hay không; các Ngài xử tệ với
ta để xem ta có sân hận hay không, đều là cảnh
giới Phật. V́ vậy, Phật và ma là một, chẳng
hai. Phật hay ma nh́n từ chỗ nào? Từ ư niệm! Một
niệm giác th́ ma cũng là Phật; một niệm mê, Phật
cũng biến thành ma. Nếu Phật hiện tiền, quư
vị dấy lên tâm ngạo nghễ, ngă mạn: “Các ngươi
thấy ta tu khá quá chớ! Thấy Phật mà, các ngươi
đâu có bằng ta!” Thôi rồi! Đọa lạc rồi!
V́ vậy, quư vị chẳng thấy Phật là v́ sao? Công
phu vẫn chưa đủ, chẳng cần phải khảo
nghiệm, quư vị vẫn chưa được. Đến
khi quư vị gần như đạt đủ tŕnh độ,
sẽ có cảnh giới hiện tiền nhằm khảo
nghiệm quư vị, quư vị phải nhớ: Đừng bị
dao động bởi các cảnh giới ấy! Thật
ra, trong cuộc sống thường ngày, mọi người
đều biết năm mươi ba lần tham học
trong kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba tham học là ǵ? Từ
sáng thức dậy đến tối đi ngủ, trong lúc
ấy, lục căn tiếp xúc cảnh giới chính là
năm mươi ba lần tham học, nam, nữ, già, trẻ,
các ngành, các nghề.
Quư vị
chẳng cần phải hâm mộ Thiện Tài, Ngài gặp nhiều
thiện tri thức dường ấy, ta chẳng gặp
một ai! Từ sáng đến tối, những người
quư vị đă gặp đều là thiện tri thức, nhưng
quư vị chẳng nhận ra! Quư vị thấy kẻ này
làm lành, đó là thiện tri thức, hăy lập tức nghĩ:
Ta có những điều tốt đẹp giống như
kẻ ấy hay chăng? Nếu ta chưa có, phải học
theo kẻ ấy. Nếu ta có, tốt lắm, hăy ǵn giữ,
đừng để mất đi! Thấy kẻ làm ác, kẻ
ấy là thầy ta, hồi quang phản chiếu, ta có làm
chuyện ác như kẻ ấy hay chăng? Hễ có, phải
sửa đổi; nếu không có, từ nay ta chớ nên phạm
khuyết điểm ấy. Quư vị thấy đó: Họ
chẳng phải là thầy ta ư? Chẳng đều là Phật
ư? Thiện Tài mỗi ngày gặp gỡ, mỗi ngày không
ngừng nâng cao cảnh giới, thành Phật viên măn trong một
đời. Chúng ta gặp gỡ mỗi ngày đều bỏ
lỡ, không hiểu biết vốn là [thiện tri thức luôn
hiện diện trong] cuộc sống thường ngày! Phật
pháp là ǵ? Phật pháp nhằm dạy chúng ta giác ngộ; hễ
ngộ sẽ là Phật, ngộ rồi bèn quay đầu,
ngộ rồi bèn ĺa khổ được vui, do mê nên mới
chịu khổ. Những phần tử tri thức, [nhất
là] hạng tri thức bậc cao, Sở Tri Chướng nặng
nề, chấp trước kiến thức của chính
ḿnh, trí huệ chưa mở mang; nếu họ có thể
buông xuống, buông tham, sân, si, mạn, nghi xuống, ḷng rỗng
rang học tập kinh điển, từng câu từng chữ
trong kinh điển là những lời lẽ chân thật,
chẳng dối trá. Quư vị có thể tiếp nhận th́
tốt lắm; nếu chẳng thể tiếp nhận th́
có thể c̣n có nghi vấn, nhưng chẳng phải là hoài
nghi, v́ sao? Đạo lư trong kinh điển quá sâu, nay ta chưa
đủ tŕnh độ, đang cầu giác ngộ, cầu
liễu giải. Cách cầu như thế nào? Dùng cái tâm thanh
tịnh để đọc tụng kinh điển, cứ
đọc từng lần một, đừng nên suy tưởng.
Giống như trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă
bảo: Đọc kinh chẳng chấp trước tướng
văn tự, chẳng chấp trước tướng
danh tự, chẳng chấp trước tướng tâm
duyên; quư vị dùng phương pháp ấy để đọc,
sau một thời gian dài, tâm sẽ định. V́ vậy, đọc
kinh giống như tŕ giới, nhất định phải
chân thành, cung kính đọc, giống hệt như Phật
đang ở trước mặt ta, cung kính đọc. Đọc
lâu ngày, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh sanh
trí huệ, hoát nhiên khai ngộ, sẽ hiểu rơ.
Kinh Hoa Nghiêm giảng về duyên khởi
vũ trụ, các phẩm như Hoa Tạng Thế Giới
và Thế Giới Thành Tựu giảng viên măn hơn những
nhà khoa học hiện thời. [Vũ trụ] san khởi như
thế nào? “Nhất niệm bất
giác, nhi hữu vô minh” (một niệm bất giác bèn có vô
minh), do nhất niệm bất giác, trong tự tánh bèn biến
ra một huyễn tướng, huyễn tướng ấy
gọi là A Lại Da. A Lại Da lại biến ra vũ trụ,
biến thành thân thể của chính ḿnh. Gần như là xuất
hiện cùng một lúc, tốc độ quá nhanh, Di Lặc Bồ
Tát đă giảng về tốc độ này [như sau]:
Trong một cái khảy ngón tay, có ba trăm hai mươi triệu
niệm, khảy ngón tay một cái th́ đă ba trăm hai
mươi triệu niệm trôi qua! Mỗi niệm ấy được
gọi là “nhất niệm”, “nhất niệm bất giác” như
Phật pháp đă nói chính là một niệm này. Trong nhất
niệm có hiện tượng vật chất xuất hiện,
vật chất là vũ trụ; có hiện tượng tinh
thần xuất hiện, tinh thần là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Ngũ Uẩn xuất hiện, Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, tướng
cảnh giới là Tướng Phần của A Lại Da.
Biểu hiện của tinh thần là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, chúng là Kiến Phần của A Lại Da, [c̣n
gọi là] Chuyển Tướng. Cách nói này rất hay! Đều
là từ một niệm bất giác; v́ thế, một niệm
bất giác được gọi là vô thỉ vô minh, vô thỉ
là ǵ? Không có khởi đầu. Quư vị phải hiểu cách
nói này có dụng ư rất sâu: Chẳng có khởi đầu
th́ là giả, chẳng thật! A Lại Da có thể hiện,
có thể biến là giả, chẳng thật, vũ trụ
được biến [bởi A Lại Da] lẽ đâu có
thật? Chẳng phải là thật! Quư vị mê nên ngỡ
nó là thật; hễ giác ngộ sẽ biết nó chẳng thật.
V́ vậy, cái tâm giác ngộ thanh tịnh, chẳng nhiễm
mảy trần, người ấy chẳng có ư niệm chiếm
hữu hay khống chế, chẳng có ư niệm đối
lập, quư vị nói xem: Người ấy có tự tại
lắm hay không? Đấy là Bồ Tát ứng hóa trong mười
pháp giới, người ta dùng cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm giác, trong tựa đề kinh ghi “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”,
người ấy sống hạnh phúc lắm, mỹ măn lắm.
Giác ngộ rồi; hễ giác ngộ bèn thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác; hễ mê th́ thanh tịnh biến thành ô nhiễm,
b́nh đẳng biến thành ngạo mạn, ngạo mạn
là phiền năo bẩm sinh, “giác” biến thành hồ đồ,
ngu si.
Quư vị
thấy: Khi giác ngộ sẽ là thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác; khi mê hoặc sẽ là ô nhiễm, ngạo mạn, sân
khuể, ngu si. Đấy là căn nguyên của vạn hữu
trong vũ trụ, t́m được căn cội rồi!
Căn cội ấy là giả, chẳng thật; cái Giả
này từ Chân biến hiện ra. Chân là chân tánh, vĩnh hằng
bất diệt. Tịnh Độ Tông gọi chân tánh là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ, nó là thật. Cũng như
khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đă nói ra năm
câu để h́nh dung Thường Tịch Quang; nó thanh tịnh,
vĩnh viễn thanh tịnh, bất sanh, bất diệt, trọn
đủ vô lượng trí huệ, đức tướng,
chưa hề lay động, có thể sanh ra vạn pháp, nhất
niệm bất giác bèn hiện vạn pháp. Liễu giải chân
tướng sự thật này, tâm chúng ta sẽ định,
bất luận trong hoàn cảnh nào, quư vị cũng đều
chẳng bị cảnh giới lay động, đó là hạnh
phúc thật sự. V́ sao chúng ta không làm được? Trên
thực tế, do liễu giải chẳng thấu triệt;
xưa kia, Chương Gia đại sư đă bảo tôi
thế này: “Phật pháp biết
khó, làm dễ”. Quư vị thấy: Hành th́ phàm hay thánh ngay
trong một niệm, Huệ Năng đại sư khai ngộ
trong một sát-na, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ dưới
cội Bồ Đề cũng là một sát-na, chẳng khó
tí nào, buông xuống là được! V́ sao không buông xuống
được? Chưa thấy thấu suốt! Đối
với kẻ chưa buông xuống, đức Phật bèn dùng
kinh giáo để giúp đỡ kẻ ấy; do vậy, Ngài
giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm nhằm
giúp những kẻ chưa buông xuống
được. Nếu vừa giảng liền buông xuống,
đâu cần phải phiền phức như thế, chẳng
cần thiết! Bậc đại đức căn
tánh thượng thượng trong Tông môn nghe một, ngộ
cả ngàn, triệt ngộ ngay lập tức là v́ các Ngài
triệt để buông xuống. V́ sao đă buông xuống rồi
mà vẫn phải khởi tu, vẫn phải học tập
kinh giáo? Nhằm rộng độ chúng sanh. Nếu quư vị
chẳng thông hiểu kinh giáo, do căn tánh của chúng sanh không
giống nhau, căn tánh ǵ cũng đều có, làm sao quư vị
giúp họ được? Do vậy, phải học tràn lan
nhiều kinh giáo, học giáo nhằm giúp đỡ người
khác, chẳng nhằm giúp chính ḿnh. Giúp chính ḿnh th́ chúng ta chẳng
tu Thiền, mà tu Tịnh Độ, một câu A Di Đà Phật
là đủ để thành tựu chính ḿnh rồi! Kinh giáo
nhằm giúp người khác, tự lợi, lợi tha! Chúng
ta chưa đại triệt đại ngộ th́ kinh giáo
nhằm giúp người khác mà cũng đồng thời giúp
chính ḿnh nâng cao, thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt
mới thật sự buông xuống được! Do vậy,
chưa thấy thấu suốt th́ phải dốc sức nơi
kinh giáo; nếu đă thấy thấu suốt, chẳng cần
[phải làm như vậy]. Đoạn này đặc biệt
nhắc nhở chúng ta: Chánh kiến rất quan trọng! Người
tu hành bất luận thuộc tông phái hay pháp môn nào, nhất
định phải giữ vững chánh tri chánh kiến. “Thị cố kỳ dư
chư pháp, danh nan hành đạo” (do vậy, các pháp môn khác
được gọi là đạo khó hành), pháp môn này là “dị hành đạo” (đạo
dễ hành).
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo: “Đản
Niệm Phật pháp môn, đồng ư Mật pháp, thị
tha lực môn, thuộc ư Quả giáo” (nhưng pháp môn
Niệm Phật giống như Mật pháp, là tha lực môn,
thuộc về Quả giáo). Phật pháp khai ngộ, pháp môn
vô lượng vô biên, nhưng tới cuối cùng, chỉ có
ba môn, ba môn ấy là giác, chánh, tịnh, tới cuối cùng là
ba môn này. Giống như chúng ta tới giảng đường
này, giảng đường có ba cửa, nhưng có rất
nhiều đồng học từ các nước trên thế
giới đến đây theo vô lượng vô biên lộ tŕnh
[khác biệt], bất luận quư vị đi theo lộ tŕnh
nào, khi tới chỗ tôi, muốn vào giảng đường
này phải theo ba cái cửa ấy. V́ thế, tới cuối
cùng là ba môn này. Giác môn dành cho bậc thượng thượng
căn, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh; Thiền Tông, Tánh Tông theo môn này, chẳng phải là người
thượng thượng căn sẽ chẳng thể hành
theo môn này. Môn thứ hai là Chánh môn, Chánh môn dễ đi, giống
như học hành phải theo thứ tự, từ Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, nghiên cứu sinh mà đạt
được học vị tối cao. Học vị tối
cao là thành Phật, nhưng thời gian rất dài, trong một
thời gian ngắn chẳng thể thành tựu ổn thỏa,
thích đáng. Dẫu có khi ổn thỏa, thích đáng, nhưng
thọ mạng của chúng ta quá ngắn, sợ rằng chẳng
thể thành tựu trong một đời được! Như
vậy th́ phiền quá, đời sau chẳng biết khi nào
lại được làm thân người. Được
làm thân người, nhưng có được gặp gỡ
[pháp môn này] lần nữa hay không, vẫn là một câu hỏi!
Rất nhiều kẻ được làm thân người,
nhưng chẳng gặp gỡ, sống uổng phí một đời này, v́ thế [liễu
thoát theo Chánh môn] chẳng dễ dàng, phải tốn thời
gian rất dài! Môn thứ ba là Tịnh môn, tu tâm thanh tịnh.
Tu Tịnh môn gồm hai tông, Mật Tông là Tịnh môn, Tịnh
Độ Tông là Tịnh môn, đều dựa vào tha lực,
Phật đến gia tŕ. Mật Tông cũng là Phật gia
tŕ, Tịnh Độ Tông cũng vậy, nhưng Tịnh
Tông dễ tu hơn Mật Tông.
Thầy
tôi là Chương Gia đại sư, Ngài là Thượng Sư
bên Mật Tông, sư huynh sư đệ của Ngài gồm bốn vị là Đạt Lại
(Dalai), Ban Thiền (Panchen), Chương Gia, Triết Bố
Tôn Đan Ba (Jebtsundamba), bốn người cùng là đệ
tử của đại sư Tông Khách Ba (Je Tsongkhapa)[4].
Bốn vị này ở biên cương Trung Quốc: Đạt
Lại ở Tiền Tạng (Ü-Tsang),
Ban Thiền ở Hậu Tạng, Chương Gia ở Nội
Mông, Triết Bố Tôn Đan Ba tại Ngoại Mông, người
ta thường gọi họ là
Tứ Đại Lạt Ma, c̣n gọi là Tứ Tôn Hoạt Phật
(bốn vị Phật sống). Khu vực giáo hóa của ngài Chương Gia lớn nhất:
Từ vùng Đông Bắc của Trung Quốc, Nội Mông
cho tới Cam Túc, Nhiệt Hà, Sơn Tây, Thiểm Tây, lại
c̣n bao gồm cả phía bên kia như Tân Cương, Thanh Hải,
cả vùng này đều thuộc phạm vi quản hạt
của Ngài. Do vậy, giáo khu của Ngài có phạm vi lớn
nhất. Chúng tôi có duyên phận hiếm có, được thân
cận Thượng Sư, Ngài chẳng dạy tôi học Mật,
mà dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài giảng
cho tôi nghe rất nhiều Mật pháp, nên tôi liễu giải:
Trong Phật môn, Mật pháp là Phật pháp cao cấp trong giáo
pháp Đại Thừa, giống như ǵ? Chương tŕnh
học của nghiên cứu sinh, kẻ b́nh thường chẳng
thể tu được! Người b́nh thường có
thể tu Mật, [th́ Mật pháp ấy]
là giả, chẳng thật. Đó là kết duyên, giống
như trong vườn trẻ (ấu trĩ viên, kindergarten)
cho trẻ tốt nghiệp, cũng đội mũ Tiến
Sĩ, chúng ta phải hiểu người b́nh thường
học Mật cũng giống như vậy. Thầy
bảo tôi: Thật sự học Mật th́ ai mới đủ
tư cách? Sơ Địa Bồ Tát, Ngài nói đến [Sơ
Địa trong] Biệt Giáo. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, [người
đủ tư cách học Mật] là Sơ Trụ Bồ
Tát, sau khi vượt thoát mười pháp giới, minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật bèn học Mật pháp, dùng Mật
làm gia hạnh, cảnh giới sẽ nâng cao lên rất nhanh.
Nếu quư vị chưa đạt cảnh giới này mà học
Mật sẽ là giả, chẳng thể thành tựu!
Lăo cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng học Mật, cụ bảo
tôi: “Hiện thời, Mật chẳng dùng được, chẳng
có cách nào đạt được sự thù thắng trong
Mật Tông”. Thiền cũng không được, cụ học
Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân. Cụ bảo
tôi: “Hiện thời, trừ Niệm
Phật ra, chẳng có cách thứ hai nào để thành tựu!”
V́ thế, lúc cụ văng sanh, đă cho tôi biết: Mỗi ngày
cụ niệm Phật hiệu mười bốn vạn tiếng.
Sau khi viết xong bản chú giải kinh này, thứ ǵ cụ
cũng không đọc, chỉ niệm Phật, nhất tâm
cầu sanh Tịnh Độ; v́ thân thể cụ không khỏe,
lắm bệnh, tuổi đă cao, nên cầu sanh Tịnh
Độ chẳng giả! V́ thế, Mật Tông ắt phải
là đă thành tựu thật sự trong Hiển Giáo rồi
mới dùng Mật pháp làm gia hạnh. Hiện nay, Tạng Mật
(Mật Tông Tây Tạng) cũng biến hóa theo thời đại.
Do vậy, trên thực tế, so với trước kia đă
thua kém rất nhiều. Tôi từng hỏi thầy, Lạt
Ma chuyển thế truyền thừa trong Mật Tông là thật
hay giả? Thầy bảo:
- Đại khái, ba đời
đầu tiên là thật, từ đời thứ tư trở
đi, không dám chắc! Tuy vậy, chớ nên khinh thường!
Sau khi đă chọn được linh đồng[5],
đứa trẻ ấy có duyên phận được những
vị thầy giỏi nhất kèm cặp; nếu nó dụng
công thật sự tu học, sẽ thành công.
Thật đấy! Người
khác chẳng gặp được duyên phận có các vị
Thượng Sư giỏi nhất chỉ dạy, Ngài nói
thật với tôi như thế. Lại hết thời
gian rồi! Ngày mai chúng ta lại nói tiếp từ câu “Niệm Phật pháp môn, đồng
ư Mật pháp” (pháp môn Niệm Phật cùng với Mật
pháp). Ngày hôm nay học tập tới chỗ này!
Tập 14
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống!
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải
trang thứ mười ba, ḍng thứ hai đếm từ
dưới lên, chúng ta xem từ chỗ này.
“Đản Niệm Phật pháp môn, đồng ư
Mật pháp, thị Tha Lực Môn, thuộc ư Quả giáo.
Hành nhân phát tâm niệm Phật, trượng Di Đà bổn
nguyện nhiếp thọ, oai thần gia bị, hộ tŕ
hành giả, ma bất năng nhiễu” (Nhưng pháp môn Niệm Phật cùng với
Mật pháp là Tha Lực Môn, thuộc về Quả giáo. Hành
nhân phát tâm niệm Phật, nương vào bổn nguyện
và oai thần của Phật Di Đà gia bị, hộ tŕ
hành giả, ma chẳng thể quấy nhiễu). Cụ Niệm
Tổ bảo: Pháp môn này và Mật Tông rất giống nhau,
thuộc loại Quả giáo, thuộc loại Tha Lực Môn,
nhất định phải được Phật gia tŕ. Tám
vạn bốn ngàn pháp môn có được đức Phật
gia tŕ hay không? Có chứ! Chẳng thể nói không có gia tŕ,
đều có gia tŕ; nhưng pháp môn này được Phật
gia tŕ đặc biệt thù thắng, khác hẳn những
pháp môn thông thường! V́ thế, cổ đại đức
gọi pháp môn này là “môn dư
đại đạo”, những pháp môn kia là tám vạn bốn
ngàn pháp môn, [pháp môn này] chính là một hành môn đặc biệt
ở ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, nên gọi là “môn dư đại đạo”;
quả thật nó giống như Mật pháp. Lần trước,
tôi đă thưa với quư vị, Phật pháp thật sự
là vô lượng pháp môn, do căn tánh của hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới khác biệt,
nhằm thích ứng hết thảy chúng sanh, đức Phật
lập ra vô lượng pháp môn làm phương tiện tiếp
dẫn; nhưng hết thảy các pháp môn tới cuối cùng
chỉ c̣n ba môn là “giác, chánh, tịnh”; trong lần trước
tôi đă thưa với quư vị, ba môn này cũng gọi là
Tam Bảo. Quư vị thấy học Phật, nhập môn bèn
trước hết truyền trao Tam Quy, Tam Quy có ư nghĩa ǵ?
Tức là truyền trao cho quư vị ba cửa ngơ để
nhập Phật môn. Đối với ba môn ấy, từ bất
cứ môn nào để tiến vào đều như nhau, tiến
vào bằng cửa ngơ khác nhau, nhưng đă vào trong th́ đều
giống như nhau. Ví như một căn nhà có ba cửa,
bất luận từ cửa nào tiến vào cũng đều
chẳng khác nhau, đó là “pháp
môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”.
Nhưng ba
môn này, đích xác có tiêu chuẩn khác nhau. Giác môn dành cho người
thượng thượng căn. Trong tám tông phái Đại
Thừa của Trung Quốc, chỉ có Thiền Tông và Tánh Tông
thuộc hành môn này. Môn này được gọi là “nhất bộ đăng thiên”
(một bước lên trời), là Đốn Giáo, chẳng
phải Tiệm Giáo. Nó là Đốn Giáo, đốn xả,
đốn chứng, đốn siêu. Quư vị thấy người
ấy (người tu tập hành môn này) có năng lực buông
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống
cùng một lúc, buông xuống đồng thời. Điều
này nói dễ, làm chẳng dễ! Hễ buông xuống sẽ
thành Phật. Do vậy, nói theo lư luận, phàm phu thành Phật
tốn bao nhiêu thời gian? Một niệm! Phàm phu chúng ta
nghĩ không ra “một niệm” này, một niệm là ǵ vậy?
Một niệm chừng bao lâu? Một sát-na? Không phải vậy!
Chẳng phải là một sát-na, nó c̣n ngắn hơn một
sát-na. Di Lặc Bồ Tát giảng: Trong một khảy ngón
tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; “một niệm”
là như vậy đó. Nay chúng ta tính toán bằng giây, trong một
giây, đại khái là khảy thật nhanh, có người khảy
nhanh hơn ta, ắt phải trong một giây có thể khảy
năm lần, thường th́ ta khảy bốn lần! Nếu
là bốn lần, trong một giây có bao nhiêu niệm? Có một
ngàn hai trăm tám mươi triệu; nếu khảy
năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. Quư vị
nói có phải là niệm quá vi tế hay chăng? Chúng ta chẳng
có cách nào, chẳng có cách ǵ nghĩ tưởng, do khi vừa
mới nghĩ tới, đă có bao nhiêu niệm khởi lên? Tuyệt
đối chẳng phải là một niệm, chữ “nhất niệm” chỉ điều
này!
Đoạn
được nhất niệm ấy, liền thành Phật;
v́ vậy, vẫn phải dùng tỷ dụ để nói. Thí
dụ như trong hiện tại, chúng ta quen thuộc nhất,
có ấn tượng sâu đậm nhất chính là điện
ảnh. Hiện tại, điện ảnh dùng [kỹ thuật]
“số mă” (digitalized), lại khác hẳn, trước đây
dùng phim nhựa. Dùng phim nhựa th́ mỗi tấm phim là một
tấm ảnh có thể chiếu sáng, từng tấm phim một.
Phim được quay bằng máy quay phim tạo thành dương
bản (postive film, chánh phiến), cuộn phim gồm nhiều
bức h́nh chụp liên tiếp. Bỏ vào máy chiếu phim, mở
máy chiếu phim lên, tấm phim này [trong cuộn phim] được
rọi lên màn bạc, ống kính [của máy chiếu phim] đóng
lại rồi lại mở ra để chiếu tấm kế
tiếp, tức là đổi sang tấm khác, trong một giây
thay đổi hai mươi bốn tấm [khác nhau], khiến
mắt chúng ta bị lừa, chúng ta thấy phim ảnh giống
như thật. Thật ra, những h́nh ảnh ấy chẳng
thật, từng tấm khác nhau, đó là một thứ “tương tự tương tục
tướng” (h́nh tướng gần như tồn tại
liên tục), “tương tự”, tuyệt đối chẳng
phải là tương đồng! Ở đây, chúng ta có một
bộ phim, một giây là hai mươi bốn tấm, mỗi
tấm khác nhau, chẳng có tấm nào giống nhau. Nay chúng
ta dùng chuyện này làm tỷ dụ, trong điện ảnh
là một giây [máy chiếu phim chiếu qua] hai mươi bốn
tấm; đức Phật bảo trong vũ trụ này,
trong một giây, vũ trụ chiếu bao nhiêu tấm? Tôi vừa
mới nói đấy thôi, nếu một giây khảy ngón tay
bốn lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám
mươi triệu, chúng ta làm sao biết h́nh tượng được
hiện là giả? Ai thấy được? Kinh thường
nói Bát Địa Bồ Tát do công phu định lực sẽ
trông thấy. Nếu nói một giây khảy ngón tay năm lần
th́ sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. [Do vậy, tướng
được biến hiện trong vũ trụ là] giả,
chẳng thật! Khi đă đoạn được niệm,
quư vị sẽ thấy Thật Tướng của vũ
trụ, thứ ǵ cũng đều không có. Thứ ǵ cũng
chẳng có, sẽ xuất hiện điều ǵ? Cái hiện
ra sẽ được gọi là Thường Tịch
Quang, đây là tầng cấp cao nhất trong Tịnh Độ.
Trong Thường Tịch Quang, không có hiện tượng
vật chất, mà cũng không có hiện tượng tinh thần,
nhưng quư vị chẳng thể nói là nó không có!
Đức
Thế Tôn minh tâm kiến tánh, nói ra một bộ Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, nói rất nhiều,
chúng ta chẳng nắm được cương lănh. Nói
đơn giản, rốt cuộc kinh nói những ǵ? Kiến
tánh, tánh là như thế nào? Nhưng Huệ Năng đại
sư đă kiến tánh, Ngài đă nêu ra một tổng cương
lănh, gồm năm câu, hai mươi chữ. Hai mươi chữ
ấy giảng về Thường Tịch Quang, Thường
Tịch Quang là như thế đó. Quư vị phải hiểu:
Thường Tịch là nói về tự tánh của chính ḿnh,
Thường Tịch là cái Ngă thật sự, trong Thiền
Tông nó được gọi là “phụ
mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (mặt
mũi vốn có trước khi được cha mẹ
sanh ra). Diện mục ấy mọi người đều
giống nhau! Huệ Năng đại sư cho chúng ta biết,
câu đầu tiên là “bổn tự
thanh tịnh” (vốn tự thanh tịnh), cũng có nghĩa
là nói: Trong tự tánh chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Hiện
thời nó có ô nhiễm hay không? Không có! Chắc chắn không
có ô nhiễm. Hiện tại, đức Phật thường
nói lục đạo mười pháp giới là ô nhiễm, nhưng
tự tánh chẳng ô nhiễm. Cái bị ô nhiễm là ǵ? A Lại
Da bị ô nhiễm! Tự tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng
tâm. Vọng tâm có ô nhiễm, chứ chân tâm chẳng bị ô
nhiễm. Chúng ta dùng điện ảnh hay dùng máy TV [để
làm tỷ dụ th́] cũng giống như vậy. Lấy
nó làm tỷ dụ th́ có thể thấy các sắc tướng
hiện ra trên màn h́nh là ô nhiễm, mở trúng một băng
tần th́ sắc tướng là ô nhiễm. V́ sao? Màn h́nh vốn
thanh sạch, bất luận quư vị là thiện hay ác, đều
là ô nhiễm. Nếu chúng ta hỏi màn h́nh có thật sự bị
ô nhiễm hay không? Sau khi tắt TV, màn h́nh chẳng có chút ô
nhiễm nào! Chuyện này rất gần giống chân tướng
sự thật, xác thực là không có ô nhiễm. Do vậy, ô
nhiễm là vọng tâm, vọng tâm chẳng phải là chân
tâm, chẳng liên can ǵ đến tự tánh, là chuyện khác
hẳn! Do vậy, A Lại Da có ô nhiễm, tự tánh chẳng
ô nhiễm. A Lại Da có sanh diệt, những tướng được
hiện bởi nó, bất luận là hiện tượng vật
chất, hay hiện tượng tinh thần, đều có sanh
diệt, là pháp duyên sanh (pháp sanh bởi các duyên). “Nhân duyên
sanh pháp” (pháp sanh bởi nhân duyên) sẽ có sanh diệt. Tự
tánh chẳng sanh bởi nhân duyên, nó vốn sẵn có, cho nên
nó “không có sanh diệt”, “vốn
tự trọn đủ”. Tuy nó chẳng có bất cứ
hiện tượng vật chất hay tinh thần ǵ, nhưng
nó có thể hiện hết thảy các tướng. Điều
này cũng rất khó hiểu, cái ǵ cũng chẳng có, cớ
sao nó có thể hiện? V́ sao hiện ra vô lượng, vô số,
vô tận, cớ sao hiện nhiều ngần ấy? Biến
huyễn vô cùng! Tôi học kinh Hoa Nghiêm, suy nghĩ thật
lâu mà chẳng nghĩ ra: Thứ ǵ đều không có th́ nó biến
bằng cách nào? Biến ra nhiều ngần ấy! Rồi tôi
nghĩ đến lúc nhỏ chơi kính vạn hoa, tôi nghĩ
tới món đồ chơi ấy. Kính vạn hoa rất
đơn giản, mọi người đều biết,
tôi vừa nhắc tới, khá nhiều người tặng
kính vạn hoa cho tôi, tặng cả mười mấy cái!
Ba miếng thủy tinh, bên trong bất quá là mấy mảnh
vụn có màu sắc khác nhau, quư vị xoay chuyển ống
kính, xoay suốt ngày từ sáng đến tối, nó sẽ
hiện ra vô số mô thức sắp xếp (pattern), chẳng
có cái nào giống nhau! Tôi liền nghĩ “vốn tự trọn đủ, có thể sanh vạn
pháp” có cùng một đạo lư với kính vạn hoa, thật
đấy, chẳng giả đâu! Dẫu hiện nhiều
đến mấy, quư vị chẳng thể nói nó là có; khi
nó chẳng hiện, chẳng thể nói nó không có. Có và Không là
tương đối, có và Không là nhị biên, trong tự tánh
chẳng có đối lập, phải hiểu rơ đạo
lư này! Chúng ta muốn trở về tự tánh, mà có ư niệm
đối lập, sẽ trở về không được,
điều ấy rất nghiêm trọng!
V́ vậy,
học Phật dẫu học thật giỏi, nói đến
nỗi hoa trời rơi loạn xạ, mà vẫn đối
lập với người khác, đối lập với sự,
đối lập với vạn vật, th́ kẻ ấy là
lục đạo phàm phu chính cống, chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi, mà cũng chẳng thể văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tuy Cực
Lạc thế giới nói “đới nghiệp văng sanh”, chẳng
thể mang theo [nghiệp chướng] hiện hành, có thể
mang theo cựu nghiệp, [tức là] có thể mang theo nghiệp
trong quá khứ, chẳng thể mang theo nghiệp hiện tiền.
Ta oán một ai, đến lúc lâm chung, lúc thở hắt ra hơi
cuối cùng, c̣n oán hay chăng? C̣n oán th́ chẳng có hy vọng
chi hết, quư vị chẳng văng sanh được! Trong hơi
thở cuối cùng, ta chẳng oán hờn, A Di Đà Phật
mới có thể đón quư vị đi. Công phu này phải luyện
trong lúc b́nh thường, kẻ đối với ta có thâm
cừu đại hận như thế nào đi nữa cũng
chẳng ghim trong ḷng. Ghim trong ḷng sẽ chẳng đến
được thế giới Cực Lạc, chẳng thể
thấy A Di Đà Phật, phải buông xuống! Người
khác oán hận ta, chẳng sao cả! Tâm ta thanh tịnh, chẳng
nhiễm mảy trần; người khác có oán hận tức
là kẻ ấy chẳng thanh tịnh, có ô nhiễm. Do vậy,
phải nhớ: Kinh Vô Lượng Thọ dạy ba tiêu chuẩn
tu hành là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Phải biết do ba chuyện này sẽ văng sanh ba cơi
Tịnh Độ khác nhau trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Thật sự đoạn, chẳng c̣n chấp
trước, sẽ sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Chẳng
c̣n phân biệt, đoạn vô minh rồi, sanh vào cơi Thật
Báo Trang Nghiêm; hễ b́nh đẳng bèn sanh vào cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Nếu đă giác th́ sao? Đại triệt đại
ngộ, giác rồi th́ sao? Giác rồi bèn trở về cơi Thường
Tịch Quang. V́ vậy, chúng ta đới nghiệp, nói thật
thà là “thứ ǵ cũng chưa thể đoạn”, nhưng
đới nghiệp là mang theo nghiệp quá khứ, chẳng
mang theo nghiệp hiện hành! Nay chúng ta phải hóa giải
tất cả hết thảy những đối lập,
mâu thuẫn, xung đột với người khác, buông xuống
từ nội tâm, đừng nên so đo nữa, mong cho tâm
ḿnh đạt đến thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện
tiền, chắc chắn quư vị được văng sanh, điều
này trọng yếu lắm! Đừng để ngoại cảnh
quấy nhiễu khiến cho cơ hội lần này lại
bị chướng ngại, [nếu để bị chướng
ngại] tức là sai lầm quá đỗi to lớn!
Ba môn
“giác, chánh, tịnh”, giác bèn sanh vào Thường Tịch Quang,
b́nh đẳng bèn sanh vào cơi Thật Báo, thanh tịnh sanh vào
cơi Phương Tiện. Ở đây, đức Phật dạy
chúng ta: Cơi Phương Tiện là tứ thánh pháp giới
trong mười pháp giới của Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Tây Phương thù thắng, chẳng
giống các cơi nước khác. Cơi ấy chẳng có lục
đạo, tuy cũng có cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng
cơi Phàm Thánh Đồng Cư chẳng phải là lục
đạo, chỉ có hai đường nhân thiên, chẳng
có Tu La đạo, mà cũng chẳng có tam ác đạo. Đây
là chỗ khác biệt! Trong ba môn, hành theo
môn nào cũng đều được. Nếu hành theo Giác
môn, chắc chắn sanh vào cơi Thật Báo, giác, chánh, tịnh.
Chánh môn th́ tùy thuộc công phu sâu hay cạn, chẳng nhất
định. Công phu cao, sanh vào cơi Phương Tiện;
kém hơn th́ vẫn sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Hành
theo Tịnh môn khác hẳn. Đối với Tịnh môn, nếu
niệm đến Lư nhất tâm bất loạn sẽ là cơi
Thật Báo, Sự nhất tâm bất loạn là cơi Phương
Tiện; công phu thành phiến là cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
V́ vậy, thấp nhất là công phu thành phiến. “Thành phiến”
là ǵ? Chưa đoạn phiền năo, nhưng trong tâm có Phật,
có A Di Đà Phật, trừ Phật ra, ư niệm ǵ cũng đều
có thể chế ngự, chẳng cho nó khởi tác dụng,
khuất phục phiền năo, chứ chưa đoạn phiền
năo. Đoạn phiền năo bèn chuyển thức thành trí, người
ấy chưa đoạn. Công phu niệm Phật nhằm
chế ngự phiền năo, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, đè nén phiền năo. Đó là điều
kiện phải có đủ để văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới; không hội đủ
điều kiện này sẽ chẳng thể văng sanh. Chúng
ta hiểu đạo lư này, liễu giải
chân tướng sự thật này, biết trong cuộc
đời này phải nên làm chuyện ǵ, điều ǵ trọng
yếu nhất đối với chúng ta. Thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác là trọng yếu, phải dốc toàn lực
t́m lại. Chính ḿnh vốn sẵn có giác, chánh, tịnh. Trong
Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói: “Bổn giác vốn có, bất giác
vốn không”. Đây là bổn giác, t́m lại nó th́ t́m từ
cái tâm thanh tịnh, tu ǵ trong hết thảy hoàn cảnh? Tu tâm
thanh tịnh, tu không bị ô nhiễm, không bị quấy
nhiễu, đó là tu hành thật sự.
Mười
tông phái đều hành theo ba môn này, tôi vừa mới nói: Tánh
Tông và Thiền Tông hành giác môn, những tông khác là Giáo Hạ,
như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tam Luận và Pháp Tướng Duy Thức
đều hành theo Chánh môn, chánh tri, chánh kiến. Loại thứ
ba là hành theo Tịnh môn, gồm hai tông phái là Tịnh Độ
Tông tu tâm thanh tịnh, Mật Tông cũng tu tâm thanh tịnh;
nhưng Hiển và Mật khác nhau, công phu của Mật Tông
đúng là cao hơn Tịnh Tông. Tịnh Tông tu cái tâm thanh tịnh
như thế nào? Viễn ly hết thảy nhiễm pháp, viễn
ly hết thảy ô nhiễm, tu tâm thanh tịnh dễ dàng! C̣n
trong Mật pháp là chẳng ĺa cảnh giới để tu tâm
thanh tịnh, khó lắm! Đó chẳng phải là chuyện
dễ dàng. Tịnh của họ (Mật Tông) là chân tịnh,
c̣n chúng ta là tách ĺa, thanh tịnh, sau khi tiếp xúc chưa chắc
đă thanh tịnh. V́ vậy, người ta là thanh tịnh
thật sự. Mật là pháp thượng thượng thừa
trong Phật pháp, chẳng học pháp môn ấy sẽ chẳng
thể thành Phật. Chẳng thể không tu [Mật pháp], nhưng
tu lúc nào? Từ Sơ Địa trở lên. Nói cách khác, Bồ
Tát thuộc địa vị Tam Hiền tu Hiển Giáo.
Trong trường học, vị ấy học lớp Tiến
Sĩ, quư vị đă tốt nghiệp Thạc Sĩ mới
có thể tu theo ban Tiến Sĩ. Nếu quư vị chưa
phải là tŕnh độ này mà tu Mật sẽ rắc rối
to, cuối cùng sẽ đến đâu? Vào A Tỳ địa
ngục! Trong quá khứ, Chương Gia đại sư bảo
tôi: Trong thế gian chúng ta, tŕnh độ
thấp nhất [để có đủ tư cách học] Mật
Tông là Sơ Trụ trong Viên Giáo, cũng có nghĩa là thật
sự đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. Quư vị tiếp xúc bất luận cảnh giới ǵ
đều chẳng bị lay động, cũng sẽ
không bị quấy nhiễu, giống như Thiện Tài
đồng tử tham học năm mươi ba lần.
V́ sao thầy
chúng tôi hạn chế rất nghiêm, thứ ǵ cũng không cho
phép đọc, cũng chẳng cho phép nghe, mà cũng chẳng
cho phép học, sợ ǵ? Sợ bị quấy nhiễu. Quư
vị chưa có định tánh, “gần son sẽ đỏ,
gần mực sẽ đen” th́ làm sao được? Son và
mực bày ra trước mặt, quư vị hết sức tiếp
cận, chẳng tiêm nhiễm mảy may! Có công phu ấy th́
mới có thể học, mới có thể đi ra ngoài tham
học. V́ vậy, tham học là có điều kiện, chẳng
phải tùy tiện ai cũng đều có thể đi tham
học, không thể nào! Quư vị thấy Thiện Tài đồng
tử tham học, Ngài đă minh tâm kiến tánh trong hội
Văn Thù Bồ Tát, đắc Căn Bản Trí, đó là kiến
tánh, là đại triệt đại ngộ. Kinh Bát Nhă nói:
“Bát Nhă vô tri”, Căn Bản
Trí là vô tri, từ vô tri khởi tác dụng là Hậu Đắc
Trí. Ngài tham học nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí.
Hậu Đắc Trí là không ǵ chẳng biết. Khi chính quư
vị đă đạt đến vô tri th́ mới có thể
đi tham học, mới thành tựu Hậu Đắc Trí.
Chúng ta chưa đắc Căn Bản Trí mà ta đi tham học,
có được hay không? Quư vị muốn đi th́ Phật
cũng chẳng có cách nào! “Ông cứ đi đi! Ông có thể
học được ǵ hay chăng? Hết thảy những
ǵ ông học được đều là tri kiến sai lầm,
chẳng có ǵ là tri kiến chính xác hay chánh tri chánh kiến cả!”
Chúng tôi dám nói như thế này: “Toàn là học sai trật!”
Phải đến khi trong tâm thanh tịnh chẳng sanh một
niệm th́ lúc quư vị tiếp
xúc mới là trí huệ chân thật, là Phật tri Phật kiến.
Quư vị chưa đạt tới tŕnh độ này, mà ra
bên ngoài, bất luận đến tham học nơi đâu,
toàn là học được tà tri tà kiến! V́ sao? Do tâm quư
vị tà, trong tâm khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước. Do đó, chánh pháp đều biến
thành tà pháp. Người đắc Căn Bản Trí là như
thế nào? Người ấy không có tri kiến. Chẳng có
tri kiến bèn gọi là chánh tri chánh kiến, chẳng có tà
kiến, chẳng mê. Do vậy, khi người ấy tiếp
xúc, sẽ hoàn toàn tương ứng với tự tánh, khi ấy
mới có tư cách đi ra ngoài tham học.
Vừa tiếp
xúc bèn hiểu rơ, mắt thấy bèn hiểu rơ, tai vừa
nghe bèn hiểu rơ, giống như Huệ Năng đại
sư đă thị hiện, chúng ta hăy nghĩ có đúng như
thế hay không? Người ta chưa từng học kinh
Pháp Hoa, chưa hề nghe nói. Thiền sư Pháp Đạt
niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa; kinh Pháp Hoa rất dài, mỗi
ngày tối đa niệm được một bộ, niệm
ba ngàn bộ phải mất mười năm. Niệm
mười năm chẳng khai ngộ, có tập khí ngạo
mạn, cảm thấy ḿnh ghê gớm lắm, rất đáng
kiêu ngạo. Sư đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa,
kinh Pháp Hoa đă niệm thuộc làu làu. Tới chỗ Huệ
Năng đại sư thỉnh giáo, gặp mặt, [sư
Pháp Đạt nghĩ] gă này là hậu học, đảnh lễ
thầy ba lạy. Thầy thấy rất rơ ràng, lúc Sư lạy
đầu chẳng sát đất, đó là ǵ? Tập khí ngạo
mạn, lễ bái đầu chẳng sát đất. Khi Sư
đứng lên, Tổ bèn hỏi: “Ông có ǵ đáng để
kiêu ngạo?” Sư thưa đă đọc ba ngàn bộ
kinh Pháp Hoa. Huệ Năng đại sư bèn hỏi: “Kinh Pháp
Hoa nói những ǵ?” Sư chẳng thưa được,
quay lại thỉnh giáo Huệ Năng đại sư. Huệ
Năng đại sư bảo: “Kinh này ta chưa từng
nghe, ta cũng chẳng biết chữ. Nếu ông đă niệm
đến ba ngàn bộ, hăy niệm cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa có
hai mươi tám phẩm, Sư đọc đến phẩm
thứ hai, tức là đọc đến phẩm Phương
Tiện, Huệ Năng đại sư nói: “Được
rồi! Không cần niệm nữa! Ta đă hiểu toàn bộ”.
Người có bản lănh ấy mới có thể tham học!
Tổ giảng cho Sư nghe, Sư khai ngộ, lại lạy,
đầu dập sát đất, chẳng nói năng ǵ! Tham
học phải có bản lănh này mới được; thiếu
bản lănh này sẽ chẳng thể tham học, quư vị
tham cái ǵ đây? Quư vị là phàm phu!
V́ vậy,
trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đă biểu
diễn điều kiện tham học, chúng ta liền biết:
Chưa kiến tánh, chẳng thể rời khỏi thầy!
Rời thầy sẽ có vấn đề liền! Quư vị
sẽ bị ô nhiễm, biến thành tà tri tà kiến, bị
đọa lạc! Do đó, thầy có ư tốt chẳng cho
quư vị đi ra ngoài, phải ở quanh thầy. Ai mới
có cơ hội khai ngộ? Người thật thà, theo chắc
thầy, thầy chẳng hại ta. Kẻ tự cậy
thông minh, không nghe lời, cảm thấy vị thầy này
khá lắm, nhưng c̣n có vị thầy khác cao minh hơn thầy,
mà thầy chẳng chấp thuận cho tôi học, ở bên
kia người ta học rộng nghe nhiều! Có đấy!
Xưa nay trong ngoài nước đều có loại người
này. Hắn rời khỏi vị thầy này, lại đi
t́m vị thầy khác, xong rồi! Đời này xong luôn rồi!
Thiện tri thức quả thật khó cầu, trong thời
đại hiện tại này chẳng có, t́m không được!
Chỉ có một phương pháp là t́m cổ nhân, cổ
nhân đáng tin cậy. Cổ nhân là kinh giáo, chúng ta học kinh
Hoa Nghiêm bèn kiếm Thanh Lương đại sư, kiếm
Lư Trưởng Giả, các Ngài đă chú giải kinh Hoaa
Nghiêm tỉ mỉ. Chúng ta đọc kinh chẳng hiểu,
xem chú giải là nghe các Ngài chỉ dạy. Đọc một
lần không hiểu, xem mười lần, mười lần
không hiểu, xem trăm lần! Nếu quư vị có thể đọc
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao một trăm lần, có thể khai
ngộ hay chăng? Hết sức có thể! Một trăm
lần, tâm quư vị định rồi. Do vậy, trước
hết đắc tam-muội, đạt được tâm
thanh tịnh. Đọc cho đến mức tập khí phiền
năo, tập khí tri kiến thảy đều mất sạch,
tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sẽ sanh trí
huệ. Trí huệ là có thể khai ngộ, chuyện này là thật,
chẳng gạt người đâu nhé!
V́ vậy,
cương lănh rốt cục, tột cùng trong giáo học Phật
pháp là ba món: “Nhân Giới sanh Định,
nhân Định khai Huệ”. Giới là quy củ, quư vị
vâng giữ quy củ. Dạy quư vị thâm nhập một môn,
đó là quy củ. Thật sự thâm nhập sẽ đắc
định, đắc định bèn khai ngộ. Đối
với điều này, cổ thánh tiên hiền Trung Quốc,
chứ không riêng ǵ Phật pháp dạy người như vậy,
mà Nho và Đạo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Vào
thời cổ, trong trường tư thục, thầy dạy
học tṛ, chú ư tới điều trọng yếu nhất
là ngộ tánh của học tṛ, giúp nó khai ngộ. Sau khi khai
ngộ, hễ tiếp xúc ǵ cũng đều thông hiểu,
người ấy cũng rất thông minh, hễ tiếp
xúc bèn có thể hiểu rơ. V́ sao? Hết thảy các pháp chẳng
ĺa tự tánh, chỉ cần kiến tánh th́ vấn đề
ǵ cũng đều giải quyết! Nay chúng ta học kinh
Vô Lượng Thọ, t́m bản chú giải này của cụ
Hoàng Niệm Tổ là được rồi. V́ sao? Kinh do thầy
cụ là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập từ
năm bản dịch gốc, nay chúng ta thấy bản chú
giải này của cụ Hoàng đă tổng hợp toàn bộ
những lời chú giải kinh Vô Lượng Thọ của
các vị đại đức xưa nay, trong ngoài nước,
hoàn toàn tổng hợp lại. Quư vị đọc bản
chú giải của cụ Hoàng tức là đă xem bao nhiêu
kinh? Trong phần sau, cụ đă dẫn chứng hơn hai
trăm thứ. Quư vị được đọc toàn bộ,
tổng hợp toàn bộ mà! Khi chúng ta muốn xem nhiều
như vậy, phải tốn bao nhiêu thời gian? Cụ
đă chỉnh lư kỹ lưỡng. Trong quá khứ, những
bản chú giải xưa gồm có mấy thứ chúng tôi
đă từng xem qua, ở đây cụ cũng đều sao
lục đầy đủ, sao toàn bộ trong tác phẩm
này! Do vậy, bộ Kinh Giải này là tổng hợp hoàn chỉnh
của các kinh luận chú sớ trong Tịnh Độ; chúng
ta phải nhận biết tác phẩm quư giá này! Trong hết
thảy các kinh, kinh điển Tịnh Tông là quư báu. Trong các
sách vở Tịnh Tông, nay bày ra trước mặt chúng ta,
bản chú giải này là món báu! Không có tác phẩm nào siêu thắng
hơn tác phẩm này, chẳng có! Chúng ta phải quư trọng,
phải nghiêm túc học tập. Với phân lượng của
sách này, với kích thước như vậy, nếu chúng ta
thâm nhập một môn học tập từ đầu
đến cuối, học tập năm năm hay mười
năm, sẽ đắc Niệm Phật tam-muội, chẳng
c̣n vọng niệm nữa! Thời gian, tinh thần, tinh lực
của chúng ta đều tập trung vào đây, lẽ đâu
chẳng đắc định? Tam-muội ấy gọi là
Niệm Phật tam-muội. Đắc Niệm Phật tam-muội
sẽ có thể đắc Sự nhất
tâm bất loạn và Lư nhất tâm bất loạn. Lư nhất
tâm bất loạn là kiến tánh. Chúng ta mong sớm có ngày
thành tựu, sớm có ngày thành tựu th́ phải thật sự
buông xuống, bộ kinh điển này dạy chúng ta buông xuống,
thảy đều buông xuống.
Đối
với tổng cương lănh, đức Phật nói ba câu,
tức là tam nghiệp thanh tịnh. Ngài xếp khẩu nghiệp
đầu tiên, chẳng giống những kinh khác. Các kinh nói
“thân, khẩu, ư”, kinh này nói “khẩu, thân, ư”: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha
quá” (khéo giữ khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi
lầm của người khác), thật sự làm. Chúng ta c̣n
phê phán người khác hay chăng? Hữu ư hay vô t́nh phê b́nh
người khác, quư vị đều vi phạm. Nếu thật
sự học, phải thời thời khắc khắc cảnh
giác, chẳng chê bai lỗi lầm của người khác. Đừng
nên ghi nhớ khuyết điểm của kẻ khác, càng chớ
nên nói ra. Quư vị làm được điều này, sẽ
có thể học Phổ Hiền Bồ Tát thập nguyện
“lễ kính chư Phật, xưng
tán Như Lai, quảng tu cúng dường”, xử sự,
đăi người, tiếp vật đều phải như
vậy th́ mới được, mới giống Bồ
Tát. Bồ Tát chẳng có oán gia đối đầu. Tổ
tiên chúng ta dạy: “Nhân giả
vô địch” (người có ḷng nhân không có kẻ đối
địch). Trong Phật môn, “nhân
giả” được gọi là Bồ Tát; đối với
Bồ Tát thường gọi họ là “nhân giả”, tức là bậc nhân từ. Bồ Tát
là người nhân từ, không ai đối địch, trong
tâm Ngài chẳng có địch thủ. Nếu c̣n phân biệt,
c̣n chấp trước, c̣n có đối lập, kẻ ấy
chẳng phải là Bồ Tát, kẻ ấy là gă bất nhân!
Bất nhân là chẳng có tâm từ bi, “nhân giả” là đại từ đại bi. C̣n
oán hận th́ làm sao có thể coi là bậc nhân từ? Kẻ
ấy có lỗi với ta, hủy báng ta, lăng nhục ta,
hăm hại ta, nếu quư vị là người có ḷng nhân, kẻ
ấy dùng thủ đoạn ǵ để đối phó quư
vị, trong tâm quư vị đều chẳng vướng mắc.
Không chỉ chẳng vướng mắc, mà c̣n rất cảm
kích kẻ ấy. V́ lẽ ǵ cảm kích kẻ ấy? Kẻ
ấy tới khảo nghiệm xem quư vị có phải là học
Phật hay chăng? Rốt cuộc có công phu ǵ hay chăng? Chửi
quư vị mấy câu để coi có nổi quạu hay chăng?
Hễ nổi quạu là xong rồi! Quư vị thấy đó,
kẻ ấy đến khảo nghiệm quư vị!
Từ kinh
điển, quư vị thấy kinh Kim Cang có nhắc đến
chuyện vua Ca Lợi vương cắt chặt thân thể
[của Nhẫn Nhục tiên nhân]. Nguyên văn câu chuyện này
được kinh Đại Niết Bàn kể rất tỉ
mỉ, kinh Kim Cang chỉ nói đại lược! Đó
là khi Thích Ca Mâu Ni Phật chưa thành Phật, Ngài tu Nhẫn
Nhục Ba La Mật, người ta gọi Ngài là Nhẫn Nhục
tiên nhân. Gặp phải vua Ca Lợi xem Ngài có thể nhẫn
hay không? Vua Ca Lợi đem Ngài lăng tŕ xử tử, dùng
đao cắt thịt Ngài, lóc lấy từng miếng, xẻo
cho đến chết để coi Ngài có thể nhẫn
hay không? Ngươi vẫn có thể chẳng tức giận,
vẫn có thể chẳng oán hờn ta ư? Nhẫn Nhục
bảo vua: “Ta chẳng có mảy may oán hận!” Đă thế,
c̣n đối trước vua phát nguyện: “Trong tương lai ta thành Phật, người đầu
tiên ta hóa độ sẽ là nhà vua”. Thích Ca Mâu Ni Phật thành
Phật, người đầu tiên đắc độ
thành A La Hán là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả
chính là vua Ca Lợi thuở ấy. Hứa sao làm vậy! Vua
Ca Lợi thành tựu cho Ngài, nên Nhẫn Nhục tiên nhân cảm
ơn, chẳng oán hận. Thành tựu Ngài như thế nào?
Giúp Ngài sớm thành Phật. Trong một ngàn vị Phật thuộc
Hiền Kiếp, vị Phật thứ tư là Di Lặc Phật,
[lẽ ra], Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật sau Di Lặc Phật,
là vị Phật thứ năm; nhưng quư vị thấy nay
Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật trước. Di Lặc Phật
biến thành hậu bổ Phật của Phật Thích Ca,
do nguyên nhân nào? Do Nhẫn Nhục Ba La Mật nên sớm thành
tựu, quư vị nói đó là chuyện tốt hay xấu?
Tổ
tiên dạy chúng ta: “Thua thiệt
là phước”, quư vị chẳng chịu thua thiệt,
tức là chẳng cần phước báo! Nhẫn Nhục
tiên nhân biết “thua thiệt là phước”, hoàn toàn tiếp
nhận, nên phước báo hiện tiền, Ngài sớm
thành Phật. Sự thị hiện này nhằm dạy bảo
chúng ta, nạn lớn ngần ấy, nhưng Ngài luôn coi như
chẳng có chuyện ǵ, nghịch cảnh xảy đến
bèn vâng chịu. Nay chúng ta gặp một tí thử thách vặt
vănh đă chịu không nổi, làm sao có thể văng sanh? V́ vậy,
người tu hành dẫu bị thua thiệt quá mức, dẫu
bị lừa gạt quá mức, vẫn coi như chẳng
có chuyện ấy! Phải luôn nhớ một câu trong kinh Kim
Cang: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”, phải buông
chuyện ấy xuống, trong tâm chẳng có dấu vết
ǵ, chẳng oán hận mảy may, thường sanh ḷng hoan hỷ.
Đối với những oán thân trái chủ, cảm
ơn, cảm tạ! Nếu trong quá khứ, tôi thiếu nợ
họ, đáng phải đền trả, vui vẻ. Nếu
trong quá khứ, tôi chẳng thiếu nợ họ, chẳng
cần đến, sau khi họ đoạt lấy, chẳng
cần họ phải trả! Họ trả th́ tôi phải
trở lại thế gian làm người lần nữa ḥng
nhận nợ của họ, rắc rối to! Không cần
nữa! Quư vị nói xem có phải là tự tại lắm
không! Đây là chân tướng sự thật, có thể chịu
thua thiệt, thua thiệt sao cũng được, luôn hoan
hỷ.
V́ vậy,
đối với Mật, chúng ta tôn trọng, tán thán, nhưng
chẳng học. V́ sao? Biết chúng ta thiếu năng lực
để học. Chúng ta chẳng ăn thịt hết thảy
chúng sanh nhằm tiêu nghiệp chướng của chính ḿnh.
Người học Mật có thể ăn thịt hết
thảy chúng sanh, v́ sao? Khi người ấy ăn thịt
chúng nó, có thể siêu độ chúng nó, có bản lănh đó.
Nay chúng ta ăn thịt chúng sanh, có bản lănh siêu độ
nó hay chăng? Đừng nói siêu độ ǵ khác, chúng ta ăn
một con gà, có thể khiến con gà ấy sanh lên trời,
nó bèn có thể hưởng phước trời, có năng
lực ấy hay chăng? Không có năng lực ấy th́ ngàn
vạn phần chớ nên [ăn thịt chúng sanh], v́ sao? Quư
vị kết oán cừu với chúng. Mật chẳng phải
là đùa bỡn được! Trong Mật Tông không có con đường
chính giữa. Nói cách khác, một là thành Phật, hai là đọa
A Tỳ địa ngục. Nếu quư vị chẳng thành
Phật, sẽ đi vào A Tỳ địa ngục, quyết
định chẳng thể đùa bỡn được!
Thượng Sư Mật Tông kết duyên với các tín đồ
thông thường, quán đảnh cho quư vị, truyền
cho quư vị một câu chú. Quá nửa là truyền bài chú Lục
Tự Đại Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát: “Úm ma-ni bát-mê hồng”, rất
nhiều người đều biết niệm. Chương
Gia đại sư cũng truyền bài chú này cho tôi, bảo
tôi thường niệm. Tôi hỏi Ngài bài chú ấy có nghĩa
là ǵ? Ngài giảng: “Úm” (Aum) là
tiếng Phạn, có nghĩa là Thân, hiểu là Pháp Thân cũng
được, mà Báo Thân cũng được, [Úm là] thân
thể. Trong kinh Đại Thừa, Ma-ni rất nhiều, hoa
sen đấy. “Ma-ni” (Mani) là
hoa sen; “Bát-mê” (padme) là ǵn giữ.
“Hồng” (Hum) là ư, ư niệm.
Theo ngữ pháp của họ, quư vị thấy, [câu chú ấy
có nghĩa] là “thân, hoa sen, ǵn giữ, ư”. Theo ngữ pháp của
người Hoa, [có nghĩa là] “ǵn
giữ thân tâm (ư là tâm) như hoa sen”, ư nghĩa này hay lắm!
Do vậy, tŕ chú phải tam mật tương ứng, tay kết
ấn, miệng niệm chú, trong tâm quán tưởng. Quán
tưởng ǵ? Thời thời khắc khắc giữ cho
thân tâm của chính ḿnh giống như hoa sen, mọc lên từ
bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn, ư nghĩa này thật
hay! Hiện thời rất nhiều người niệm [chú
này], nhưng chẳng biết ư nghĩa, do không biết nên
chẳng sanh ra hiệu quả. Do trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật bảo: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, quư vị chẳng
quán tưởng, chỉ niệm suông, chỉ kết ấn
suông, chẳng quán tưởng th́ không được rồi,
chẳng đạt được lợi ích chân thật! V́
vậy, trong Tam Mật, quán tưởng trọng yếu nhất,
c̣n quan trọng hơn tŕ chú và kết ấn. Tôi theo Chương
Gia đại sư ba năm, Ngài chẳng truyền Mật
pháp cho tôi, Ngài nói tôi chẳng đủ tŕnh độ: “Anh c̣n
thiếu tŕnh độ rất xa!” Đó là nói thật, chẳng
giả! V́ vậy, tôi hết sức cảm kích vị lăo
nhân này. Cơ sở Phật pháp của tôi được
Ngài thiết lập trong ba năm, nên sau này mới có một
chút thành tựu như vậy!
Trong đoạn
này, [cụ Hoàng có ư nói hành nhân] thật sự được
oai thần từ bốn mươi tám nguyện của A
Di Đà Phật gia tŕ. Do vậy, pháp này thuộc Tha Lực
Môn, thuộc về Quả giáo, A Di Đà Phật dùng quả
đức gia tŕ chúng ta. “Hành
nhân phát tâm niệm Phật, trượng Di Đà bổn
nguyện nhiếp thọ, oai thần gia bị, hộ tŕ
hành giả” (hành nhân phát tâm niệm Phật, nương
vào bổn nguyện và oai thần của Phật Di Đà
nhiếp thọ, gia bị, hộ tŕ hành giả). Quư vị
thật sự y giáo phụng hành, sẽ chẳng bị ma dựa.
Quư vị thật sự y giáo phụng hành, người có công
năng đặc dị sẽ trông thấy. Đó là: Quư vị
thật sự có công phu ấy, thân thể tỏa ánh sáng, ma
chẳng thể đến gần. Huống hồ lại quy
y A Di Đà Phật, thật sự có hai mươi lăm vị
thần hộ pháp hộ vệ. V́ sao rất nhiều
người tu hành lại đổ bệnh? Đó chính là
như trong phần trước đă nói: “Hành nhân sảo hữu chấp trước”, tức
là có một tí chấp trước như thế, “tiện thất chánh kiến, tức
nhập ma đồ” (liền mất chánh kiến, thuộc
vào đường ma), phiền phức liền! Toàn bộ
oán thân trái chủ của quư vị t́m tới cửa. Tâm này
phải trụ nơi đạo, làm thế nào để
trụ nơi đạo? Thời thời khắc khắc
niệm Phật. Chẳng niệm Phật, bèn nghĩ đến
những đạo lư được giảng trong kinh
điển. Đại Thế Chí Bồ Tát chỉ dạy
chúng ta: “Ức Phật, niệm
Phật, hiện tiền, đương lai, tất định
kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện
tại, tương lai, nhất định thấy Phật).
Ức Phật là ǵ? Thường xuyên tưởng Phật,
Phật ở đâu? Những điều kinh đă giảng
đều là Phật.
Kinh Hoa Nghiêm càng giảng cặn kẽ
hơn. Trong quá khứ, chúng ta học kinh Hoa Nghiêm lâu ngần
ấy, đă hơn bốn ngàn giờ. V́ thời gian dài
như thế, chúng tôi mới đem ghép bộ Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán vào, đó là cương lănh tu học, là tinh hoa
của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Bài luận văn ấy chẳng
dài, cả bài văn chỉ có sáu đoạn; tiên sinh Phương
Đông Mỹ nói ba đoạn đầu là Triết Học
tối cao, ba đoạn sau là khoa học
tối cao. Đây là triết học và khoa học trong giáo
pháp Đại Thừa đều được giảng
đến tột đỉnh, rốt ráo viên măn, giảng
rơ ràng duyên khởi của vũ trụ, duyên khởi của
vạn vật, duyên khởi của sanh mạng, ta từ
đâu đến, duyên khởi của bản thân chúng ta, đều
nói ra hết, quá ư là khó có! So với những thứ triết
học và khoa học tột đỉnh trong cả thế
giới hiện thời, trọn chẳng thua kém. Chúng tôi
cũng dùng hơn hai trăm giờ để giảng. Bộ
DVD này có thể nghe nhiều lần, nghe không hiểu
chẳng sao cả! Cứ nghe từng lần một, nghe rồi
sẽ khai ngộ. Nghe xong, dẫu chẳng khai ngộ, chắc
chắn cũng giúp quư vị buông xuống, lợi ích ấy
cũng rất lớn.
Tiếp đó,
cụ dẫn một đoạn trong kinh Thập Văng Sanh: “Phật ngôn: Nhược hữu
chúng sanh niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sanh giả,
bỉ Phật tức khiển nhị thập ngũ Bồ
Tát ủng hộ hành giả. Nhược hành, nhược
tọa, nhược trụ, nhược ngọa, nhược
trú, nhược dạ, nhất thiết thời, nhất
thiết xứ, bất linh ác quỷ, ác thần đắc
kỳ tiện dă” (Đức Phật dạy: “Nếu có
chúng sanh niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sanh, đức
Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ
Tát ủng hộ hành giả. Dù đi, hay ngồi, dù đứng,
hay nằm, dù ngày, hay đêm, trong hết
thảy thời, hết thảy chỗ, chẳng để
cho ác quỷ, ác thần có cơ hội thuận tiện [quấy
nhiễu hành giả]”). Quư vị có tin điều này hay
không? “Bỉ Phật” là A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật phái hai mươi lăm vị
Bồ Tát. Khi Tam Quy Y bèn có ba mươi sáu vị thần hộ
pháp, “hai mươi lăm”
là nói đến Ngũ Giới. Quư vị thật sự thọ
tŕ Ngũ Giới, sẽ có hai mươi lăm vị thần
hộ giới. Do vậy, kiếp trước, kiếp này,
oán thân trái chủ cũng không thể t́m đến quấy
phá. Quư vị thật sự học Phật, dù họ có cừu
hận quư vị, cũng chẳng có cách nào báo thù! Họ thấy
quư vị thật sự tu hành, biết quư vị có thành tựu,
khi quư vị thành tựu, nhất định họ sẽ
được lợi ích, nhất định siêu độ
họ, nhất định giúp đỡ họ. Oán
thân trái chủ tới kiếm người tu hành gây chuyện
là v́ nguyên nhân nào? Quư vị tu hành giả dối, chẳng chân
thật. Căn bản là họ coi thường quư vị, nên
tới kiếm chuyện, chuyện là như vậy đó! Quư
vị tu được, sẽ khiến họ bội phục,
lẽ đâu họ quấy rối quư vị? Quư vị trách
ai? Chẳng thể trách ai khác, phải tự trách ḿnh. Nếu
chính ḿnh thật sự đúng pháp, oán thân trái chủ đều
cung kính, họ biết họ sẽ được giải
thoát, họ có duyên với quư vị, Phật độ kẻ
hữu duyên mà! Duyên ấy, bất luận là thiện duyên
hay ác duyên, nói chung, hễ có duyên bèn có thể đắc
độ. Chúng ta là người học Phật, mỗi ngày
trong Niệm Phật Đường của chính ḿnh hăy thờ
một bài vị oán thân trái chủ, chẳng quên họ, chẳng
quan tâm họ có biết hay là không, trong đời này có lẽ
có thể nhớ, nhưng đời quá khứ chẳng thể
nhớ được, chúng ta thờ bài vị đời
trước kiếp này, thảy đều có. Thật sự
tu hành, họ sẽ thật sự bội phục, thật
sự sanh tâm hoan hỷ, chẳng t́m đến làm phiền,
mà tới hộ tŕ quư vị, mong mỏi quư vị thành tựu
sớm ngày nào, họ sẽ sớm đắc độ ngày
ấy. V́ vậy, con người có cùng cái tâm này, tâm có cùng lư
này, lời Phật đă giảng trong kinh chắc chắn chẳng
phải là vọng ngữ.
Lại
xem đoạn tiếp theo: “Hựu
Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông Chương vân: ‘Kim ư thử giới,
nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ”
(Lại nữa, trong chương Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Thủ Lăng Nghiêm
có nói: “Nay ở trong cơi này, nhiếp thọ người niệm
Phật về Tịnh Độ”), đây là lời Đại
Thế Chí Bồ Tát đă nói trong kinh Lăng Nghiêm. Chương
này kinh văn chẳng dài, tổng cộng chỉ có hai
trăm bốn mươi bốn chữ, đây là một đoạn
trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông
Chương. Đối với đoạn này, Ấn Quang
đại sư, tôi nghĩ hiện thời rất nhiều
đồng học đều biết: Ấn Quang đại
sư là Tây Phương Đại Thế Chí Bồ Tát tái
lai. Trong đời quá khứ, trước khi thành Phật,
Quán Âm và Thế Chí đều là người trong thế giới
Sa Bà, cũng có thể nói [các Ngài] là đồng hương
của chúng ta. Các Ngài sanh về thế
giới Cực Lạc, nay họ giống như lớp
trưởng của các vị Bồ Tát, lănh đạo các
vị Bồ Tát giúp A Di Đà Phật giáo hóa chúng sanh. Thế
giới Sa Bà là quê hương của các Ngài, nên cũng
đặc biệt chiếu cố; v́ vậy, Ngài thường
đến thế giới này, thật vậy, giống
như trong phần trước đă nói: Hết thảy thời,
hết thảy chỗ, quư vị niệm Ngài, Ngài bèn
hiện tiền. Ngài dạy chúng ta phương pháp Niệm
Phật chính xác nhất, đơn giản nhất, ổn
thỏa nhất, đáng tin cậy nhất. Phương
pháp là “nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối”, tám chữ! “Ức Phật, niệm Phật,
hiện tiền, đương lai, tất định kiến
Phật”, câu này khẳng định như vậy, chẳng
có mảy may hoài nghi nào! Trong tâm thường tưởng Phật,
miệng thường niệm Phật, trong hiện tại,
quư vị đă có thể thấy Phật. Hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng mà! Tương lai, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mỗi ngày ở
cùng một chỗ với A Di Đà Phật và chư Phật
Như Lai, cùng học tập với các đại Bồ
Tát, đến nơi đâu t́m được hoàn cảnh này?
Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như
một trường đại học Phật giáo, hết
thảy chư Phật đem toàn bộ
những chúng sanh thuộc ba căn tánh thượng trung hạ
trong khu vực giáo hóa của các Ngài đưa sang học bên
Tây Phương Cực Lạc thế giới, Thích Ca Mâu Ni Phật
cũng không ra ngoài lệ ấy! Chỉ có các vị thượng
thượng căn là sang thế giới Hoa Tạng. Do vậy,
thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng trang
nghiêm, chúng ta phải tin tưởng, chớ nên có mảy
may hoài nghi nào!
Kinh giáo Đại
Thừa quả thật rất hấp dẫn con người,
khiến cho quư vị sau khi xem xong chẳng muốn buông xuống!
Nếu chúng ta không cầm ḷng nổi, thứ ǵ cũng đều
muốn học, sẽ là vấn đề nghiêm trọng. V́
sao? Tâm lực của chúng ta phân tán, chẳng thể tập
trung. Học tập phân tán th́ quư vị chỉ có thể đạt
được kiến thức Phật học thông thường;
nói theo thuật ngữ của giới học thuật hiện
thời là quư vị chỉ có thể thành tựu trong Phật
học. Trước kia, thầy Lư thường nói: “Trong thế gian này, quư vị có thể
trở thành một nhà Phật học (chuyên gia nghiên cứu
Phật giáo) hay là một học giả về Phật học,
chứ đối với liễu sanh tử, thoát tam giới
chẳng liên quan chi hết!” Quư vị biến đại
pháp xuất thế gian thành một thứ học thuật thế
gian, biến chất rồi! Tuy biến chất,
đương nhiên vẫn là kết pháp duyên với Phật,
trong A Lại Da đă gieo chủng tử Phật pháp, đời
kế tiếp hay đời sau, khi duyên chín muồi, vẫn
có thể thành tựu; nhưng trong đời này, chắc
chắn quư vị chẳng thể tránh khỏi nỗi khổ
luân hồi, thời gian luân hồi rất dài. Do vậy, thầy
Lư nói: “Quư vị không thể tránh khỏi nỗi khổ luân
hồi nhiều kiếp dài lâu!” Thật sự giác ngộ, buông
xuống vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ.
Những kinh giáo ta ưa thích, muốn học, đến thế
giới Cực Lạc sẽ học, hiện thời, trước
hết phải giữ lấy Tịnh Độ, đến
thế giới Cực Lạc, vô lượng thọ, hoàn cảnh
tu học tốt đẹp, chẳng trễ năi ǵ! Hiện
tại, nếu thứ ǵ cũng đều muốn học,
sẽ lỡ làng chuyện này, quư vị có thể sanh về
thế giới Cực Lạc hay không, vẫn phải đánh
rất nhiều dấu hỏi v́ quư vị chưa nắm vững!
Chớ nên không hiểu đạo lư này. Sau khi đă hiểu,
chớ nên không làm, hăy thật sự làm!
Hơn
hai mươi năm trước, tôi đă nghĩ buông bỏ
kinh giáo, chẳng làm nữa! Lần trước, giảng Kinh
Hoa Nghiêm được một nửa th́ ngừng, không giảng
nữa! Quư vị thấy tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ
mười lượt, lần này là lần thứ mười
một. Lúc ấy, tôi nghĩ: Suốt đời này, chuyên
giảng kinh Vô Lượng Thọ. cứ giảng từng
lượt một, mỗi lượt khác nhau! Nhân duyên giảng
kinh Hoa Nghiêm lần này, tôi cũng đă tŕnh bày cùng quư vị,
rất bất đắc dĩ, nhưng cũng là có lư. Pháp
sư Khai Tâm ở Đài Loan, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
và Hàn Quán Trưởng, ba người thỉnh cầu, mong
giảng kinh ấy một lần làm thành CD/DVD để giữ
lại cho người đời sau tham khảo, nhằm mục
đích này! Nếu đối với bản thân tôi, một
bộ kinh Vô Lượng Thọ này là đủ rồi! Con
đường này ổn thỏa, đơn giản, dễ
dàng hơn nhiều lắm! Một môn thâm nhập. Bản chú
giải này hay dường ấy, quá khó được, quá
hy hữu. Ở nơi đây, tôi phát tâm, hướng dẫn
mọi người cùng nhau học tập; nếu không hướng
dẫn, có lẽ hứng thú học tập chẳng quá nồng
đậm! Học tập bản chú giải này nhằm khẳng
định, kết duyên phận thật sâu với thế
giới Cực Lạc, thật sự phát nguyện, không ai
chẳng văng sanh!
Đặc
biệt là trong thế gian hiện thời, chúng sanh khổ
lắm! Bất luận là giàu, nghèo, sang, hèn, các nghề nghiệp,
không nương tựa vào đâu được! So với
bất cứ thời đại nào trong quá khứ đều
là đáng thương xót hơn! Trong xă hội thời quá
khứ, con người sống trong thế gian này, họ có
nơi nương tựa, nơi nương tựa là gia đ́nh.
Bất luận gặp chuyện khó khăn ǵ, gia đ́nh sẽ
là người ủng hộ, quư vị chắc chắn chẳng
hoài nghi gia đ́nh. Sau thời chiến tranh Trung Nhật,
trong tám năm ấy, gia đ́nh chẳng c̣n nữa, không nh́n
thấy nữa. Người Trung Quốc đáng thương, không có nhà để về, cửa
nát nhà tan. V́ vậy, chúng ta cảm ơn Phật, Bồ Tát
vô tận, Phật, Bồ Tát bảo chúng ta có nhà, thế giới
Cực Lạc là nhà của chúng ta, A Di Đà Phật, Tây
Phương tam thánh là nơi nương tựa. Đúng
vậy, tuyệt đối chẳng giả! Vấn đề
là quư vị có thể tin tưởng hay không? Nay chúng ta có lư
do tin tưởng, v́ sao? Trong Hoàn Nguyên Quán đă giảng rơ
ràng, chúng ta và A Di Đà Phật có mối quan hệ, chẳng
phải là không có, quan hệ hết sức thân mật. Di
Đà là tự tánh Di Đà, Tịnh Độ là duy tâm Tịnh
Độ. Di Đà, Tịnh Độ, có quan hệ ǵ với
ta? Nhất thể, chẳng kém mối quan hệ với cha
mẹ, mà c̣n thân thiết hơn quan hệ với cha mẹ
nữa! Chúng ta thật sự hiểu rơ quan hệ này, hiểu
rơ rồi, quư vị c̣n hoài nghi hay chăng? Chẳng hề hoài
nghi nữa! Giống như cư sĩ Lưu Tố Vân đă
làm gương: Nhất tâm nhất ư nương tựa A Di
Đà Phật, bị bệnh nặng ngần ấy, bác sĩ
trong thế gian chẳng trị được, chẳng cần
quư vị chữa trị! A Di Đà Phật là đại y
vương, chắc chắn có thể trị cho tôi lành bệnh.
Mỗi ngày niệm Phật, niệm đến nỗi lành bệnh,
điều này chẳng giả! Bà ta đă giảng cho chúng
ta nghe ở đây mười mấy giờ. Phật, Bồ
Tát có ḷng tin đối với chúng ta, vấn đề hiện
thời là chúng ta có ḷng tin đối với Phật, Bồ
Tát hay chăng? Nếu có ḷng tin, sẽ tâm tâm tương ấn!
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo. Quư vị thấy cụ Hoàng trích dẫn
Tịnh Tu Tiệp Yếu, đây là một nghi thức tu
hành do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư biên soạn. Trong ấy
có viết: “Đại Thế
Chí Bồ Tát, hiện cư thử giới, tác đại lợi
lạc. Ư niệm Phật nhân, nhiếp thủ bất xả,
linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực” (Đại
Thế Chí Bồ Tát nay đang ở trong cơi này, tạo đại
lợi lạc. Ngài nhiếp thủ chẳng bỏ người
niệm Phật, khiến họ ĺa tam đồ, đắc
vô thượng lực). Chúng tôi nghĩ khi cụ Hạ tại
thế, cụ nói Đại Thế Chí Bồ Tát là Ấn
Quang đại sư. Cụ chẳng nêu đích danh, nhưng
trên thực tế th́ sao? Trên thực tế, chẳng giả
tí nào! “Hiện đang ở
trong cơi này, thật sự tạo đại lợi lạc”.
Đại lợi lạc là ǵ? Giáo dục nhân quả. Tổ
Ấn Quang suốt đời cực lực đề
xướng giáo dục nhân quả. Chúng ta thấy xă hội
hiện tiền, có thể chữa trị căn bệnh nặng
nề của đại chúng trong xă hội này, đích thực
là giáo dục nhân quả. Thuở ấy, Ngài đă thấy
rơ ràng, thấy xă hội hiện tiền của chúng ta, dùng
luân lư chẳng trị được! Đạo đức
cũng chẳng trị được, chỉ có giáo dục
nhân quả. Phải giảng thấu triệt, giảng rơ
ràng, những chuyện nhân quả quá nhiều. Nếu sưu
tập những câu chuyện gần đây nhất th́ nhật
báo, tạp chí, phương tiện truyền thông đă báo
cáo, hễ quư vị nói [nhân quả], người ta đều
có ấn tượng, chẳng giả tí nào! Thiện có thiện
quả, ác có ác báo. Hiện thời, trong thế gian này, trên
bất cứ con đường nào tại Hương Cảng
đều có nhà hàng hải sản, quả báo do ăn hải
sản rất nhiều, đều là nhăn tiền. Đó là
quả báo do sát sanh, quả báo do ăn thịt. C̣n có một
chuyện nghiêm trọng là thiếu nữ phá thai; nghe nói hiện
thời độ tuổi [phá thai] là từ mười tuổi
cho đến ba mươi tuổi, thật là đáng sợ!
Người có công năng đặc dị hiện thời
thấy bao nhiêu trẻ gái bên thân có rất nhiều tiểu
quỷ bám theo. Ở nơi đâu? Ở ngay trên thân họ,
cho nên khắp thân họ là bệnh, bệnh chẳng thể
chữa lành. Tới bệnh viện khám nghiệm, kiếm
không ra bệnh, nhưng khắp thân dă dượi, v́ những
loài oán quỷ đến kiếm họ. Nếu họ thật
sự hiểu chuyện này, có chịu làm chuyện xấu
hay chăng? Chẳng chịu làm! V́ vậy, [đối với
họ] giềng mối luân lư đạo đức chẳng
đủ, họ không thể chống nổi dụ dỗ,
mê hoặc; nhưng do nhân quả đáng sợ, người
hiểu nhân quả sẽ chẳng dám. V́ vậy, đối
cả thế giới hiện thời, nhân quả có đại
lợi lạc.
“Đặc biệt nhiếp thủ
chẳng bỏ người niệm Phật”, Phật, Bồ
Tát âm thầm gia tŕ người niệm Phật, [đó là nói]
người thật sự niệm Phật, thật sự
muốn văng sanh, Phật lực gia tŕ, nhiếp thủ quư vị
văng sanh thế giới Cực Lạc. V́ sao chẳng nhanh hơn
một tí? Trên thế giới có tai nạn,
cũng có thể là Phật, Bồ Tát trao cho quư vị sứ
mạng, quư vị hăy khéo tu, để nêu gương tốt
cho đại chúng trong xă hội, thực hiện luân lư,
đạo đức, nhân quả cho người khác thấy,
thật sự phổ độ chúng sanh. Nếu thực hiện,
nếu tuyên dương bằng phương tiện truyền
thông, sẽ có ảnh hưởng to lớn. Ông Hồ Tiểu
Lâm là một thí dụ, không hề lừa gạt khách hàng,
cũng chẳng cần phải cạnh tranh với đối
thủ, cứ theo đúng quy củ, tuân theo giáo huấn
trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc để
kinh doanh mà một mực có lời. Chính ông ta đă báo cáo bao
nhiêu lần, tiền kiếm được quang minh, lỗi
lạc, yên tâm, thoải mái kiếm tiền, ông ta tự tại
lắm, chẳng thiếu tiền. V́ vậy, ai nấy hiểu
nhân quả, người người đều theo quy củ,
bất luận quư vị làm nghề ǵ, sẽ được
đại tự tại, sẽ thật sự hạnh phúc.
“Phật thị môn trung, hữu
cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng), cầu phú quư, đắc phú quư, ngay cả cầu
làm Phật, làm Bồ Tát đều cầu được,
phú quư thế gian trong Phật pháp là chuyện nhỏ nhoi, chẳng
thứ ǵ chẳng cầu được. Vẫn là phải
hiểu rơ ràng, minh bạch nhân quả.
“Hựu A Di Đà kinh vân: - Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh, thọ
tŕ giả, cập văn chư Phật danh giả” (lại
nữa, kinh A Di Đà dạy: “Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân, nghe kinh này, thọ tŕ và nghe danh hiệu
chư Phật), chữ “chư
Phật” ở đây chỉ A Di Đà Phật, “thị chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân, giai vi nhất thiết chư Phật
chi sở hộ niệm”. Ở đây, chữ quan trọng
nhất là chữ “thiện”,
thiện nam tử, thiện nữ nhân. Tiêu chuẩn của
thiện là ǵ? Là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Hiện
tại, chúng ta học tập, phải nên gộp cả Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên vào đó. V́ sao? V́ lẽ nào
chúng ta học Thập Thiện Nghiệp Đạo chẳng
tốt đẹp? Nói thật ra, vào thời cổ, không cần
nói quá xa, người sống vào đầu thời Dân Quốc,
tức thế hệ trước chúng tôi, như thầy Lư,
cụ Hạ Liên Cư, họ thuộc thế hệ trước,
đă thực hiện đúng tiêu chuẩn “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. V́ sao họ
làm được? Họ được hưởng thụ
sự giáo dục tốt đẹp từ gia đ́nh. Người
sống vào đầu thời Dân Quốc, gia đ́nh vẫn
c̣n, gia học (sự giáo học trong gia đ́nh hoặc trong
gia tộc) c̣n hưng thịnh. Những người có học
cũng chẳng học từ đại học nào như
hiện thời, đều là do học trong các tư thục
mà thành tựu rồi sau đấy đi thi. Thầy Lư c̣n
chưa bao giờ đến trường, thế hệ trước
thầy Lư, tức thân phụ của thầy c̣n chưa hề
đến trường, đời Thanh không có trường
học; khi đó, không có trường học, mà toàn là tư
thục, là gia học[6].
Dạy dỗ
trong gia học rất nghiêm, thầy nghiêm khắc mới có
tṛ giỏi! Thầy Lư học rất khổ sở, chúng ta
có nằm mộng cũng chẳng ngờ tới! Cụ kể
cho biết: Bị phạt quỳ, chẳng phải quỳ
trên đất, mà quỳ trên đống gạch, khổ cực
lắm! Lăo nhân gia dạy chúng tôi học, chỉ bảo chúng
tôi, bất luận là Phật học hay Nho học, dẫn chứng
kinh điển cứ thuận miệng đọc ra, chẳng
cần phải tra cứu tài liệu, chúng tôi thấy vậy
rất bội phục. Cụ bảo tôi: “Các anh có biết
do đâu mà được vậy hay chăng?” “Con chẳng
biết?” “Do quỳ trên gạch đấy. Các anh chưa hề
quỳ trên gạch, cho nên chẳng được vậy!”
Do đó, Trung Quốc vào thời cổ, trẻ nhỏ đúng
là khổ sở, được giáo dục rất nghiêm ngặt,
chẳng giống như Tây Phương. Người Tây
Phương quan niệm: Thuở nhỏ là thiên đường,
cuộc sống của nhi đồng là thiên đường,
sung sướng, chẳng bị trói buộc ǵ! Trẻ nhỏ
Trung Quốc khổ sở, mười một, mười
hai tuổi đi ra ngoài, [giữ ǵn oai nghi] giống như
một người đă trưởng thành thu nhỏ, quy củ,
quan niệm khác nhau! Thuở thơ ấu, phải hoàn thành
những thứ cần phải học trong một đời.
Sau khi đỗ đạt, theo đuổi bất cứ
nghề nghiệp ǵ, tuổi thanh xuân cống hiến xă hội,
tạo phước cho gia đ́nh, v́ gia đ́nh tạo phước.
Cả đời người ấy có mục tiêu, ta sống
v́ lẽ ǵ? Ta v́ gia đ́nh mà sống. Suốt đời nghĩ
tưởng cho gia đ́nh, làm cho tổ tông được vinh
diệu, gia tộc được vẻ vang. V́ vậy, người
ấy có chỗ để nương dựa, tâm bèn định.
Dẫu suốt đời sống ở nơi xa xôi, đến
cuối cùng lá rụng về cội, lúc tuổi già về
hưu, nhất định trở về quê hương, v́
sao? Dưỡng lăo tại quê nhà. V́ vậy, đời người
sung sướng nhất, hạnh phúc nhất. Nói đến
lúc hưởng thụ nhất sẽ là khi nào? Tuổi già! Tuổi
già hưởng lạc. Thuở nhỏ vun bồi căn cội
cho sâu chắc, vững bền, vun bồi rất nhọc nhằn,
“căn cội” ấy chính là luân lư, đạo đức, giáo
dục nhân quả. V́ vậy, với nền giáo dục ấy,
ai nấy đều là người tốt, mọi chuyện
đều tốt lành, xă hội an định. Khi trẻ
khỏe, v́ xă hội, v́ quốc gia, v́ gia đ́nh tạo phước,
lúc tuổi già hưởng phước. Điều này khác
với ngoại quốc, ngoại quốc đến tuổi
xế chiều rất đáng thương, đối với
Trung Quốc th́ tuổi già là lúc hạnh phúc nhất, hưởng
phước từ sáu mươi tuổi trở đi. Trước
kia làm quan, làm quan đến bảy mươi tuổi bèn về
hưu. Quan lại đến khi bảy mươi tuổi
bèn cáo lăo hồi hương, trở về nhà dưỡng
lăo, hưởng phước.
V́ vậy,
chữ “thiện” này trọng
yếu lắm, thiện nam tử, thiện nữ nhân. “Giai vị nhất thiết chư
Phật chi sở hộ niệm” (đều được
hết thảy chư Phật hộ niệm), dẫn kinh điển
nhiều như thế cho quư vị thấy: Chẳng phải
chỉ có một bộ kinh này nói như vậy, mà đức
Thế Tôn thường nói như thế. Tiếp theo đó,
sách viết: “Hựu niệm Phật
chi nhân hữu tứ thập lư quang minh chúc thân, ma bất
năng phạm” (Lại nữa, người niệm Phật
thân có quang minh chiếu xa bốn mươi dặm, ma chẳng
thể xâm phạm). Nhất tâm chuyên niệm, trong kinh Đại
Thừa đă dạy: “Phát Bồ
Đề tâm, nhất tâm chuyên niệm”, Bồ Đề
tâm là tâm giác ngộ thật sự. Quang minh bốn
mươi dặm: Trong Phật pháp gọi bốn mươi
dặm là một do-tuần, quang minh này là ǵ? Quang minh này là tự
tánh quang minh, cũng là “thiện” được nói trong phần
trước, thiện tâm, thiện nguyện, thiện hạnh.
Quang minh như trong kinh Phật nói được con người
hiện tại gọi là “từ
trường”. Người ấy (người niệm Phật)
ở lại nơi đây, từ trường trong ṿng bốn
mươi dặm sẽ khác hẳn. Một người tu
hành chân chánh ở nơi này, hoặc là trong một đạo
tràng nhỏ, nếu không có đạo tràng nhỏ, th́ hoàn cảnh
nơi người ấy sống, chúng tôi tin là cả nhà người
ấy đều học Phật. Trong nhà ấy, thông
thường có nhân số khoảng ba trăm người, người
già trong nhà học Phật sẽ dẫn dắt mọi người
cùng nhau học Phật. V́ vậy, chúng ta có thể tin tưởng
là một trang viên[7],
một thôn xóm, một tiểu trấn ấy chắc chắn
đều bị cảm hóa. Mấy năm trước đây,
tại tiểu trấn Thang Tŕ, chúng tôi chỉ là làm thí nghiệm,
chỉ dùng Đệ Tử Quy để dạy học, khiến
cho bốn vạn tám ngàn cư dân trong tiểu trấn ấy,
nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề cùng học, đại
khái là trong thời gian ba bốn tháng, ḷng người bèn chuyển
biến, từ trường hoàn toàn khác hẳn. Do vậy,
chuyện này là thật, chúng ta có thể tin “ma chẳng thể
phạm”. Nay chúng tôi nói những lời này, có ai tin tưởng
hay không? Người ta bảo đó là chuyện thần thoại,
chẳng thể nào có! Nói thật ra, đấy chẳng phải
là Phật không linh, cũng chẳng phải pháp không linh, hiện
thời chẳng có hiệu quả th́ phải nên biết toàn
là do bản thân chúng ta tuy học Phật nhưng tâm bất
chánh! “Bất chánh” là không chịu
buông tà mê xuống, bị tự tư tự lợi, tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần
từ ngoại cảnh dụ dỗ, mê hoặc, thời thời
khắc khắc động tâm, bị hoàn cảnh bên ngoài xoay
chuyển, nay chúng ta niệm Phật, nguyên nhân khiến cho hoàn
cảnh của chúng ta khác với hoàn cảnh được
nói trong kinh là ở chỗ này.
Tiếp
theo đó, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ dùng một đoạn
ngắn để kết luận, “Do thượng khả kiến, niệm Phật chi
nhân, hữu Di Đà sở khiển chi nhập ngũ Bồ
Tát, ư nhất thiết thời xứ, ủng hộ gia
tŕ, hựu hữu Đại Thế Chí Bồ Tát đẳng,
oai đức nhiếp thọ, phục vi nhất thiết
chư Phật chi sở hộ niệm” (do những điều
trên đây có thể thấy người niệm Phật
được hai mươi lăm vị Bồ Tát do Phật
Di Đà sai đến ủng hộ gia tŕ trong hết thảy
lúc, hết thảy nơi, lại có những vị như Đại
Thế Chí Bồ Tát v.v... oai đức nhiếp thọ, lại
được hết thảy chư Phật hộ niệm).
Phước báo này to nhiều, là phước báo bậc nhất!
Chư vị phải biết: Thật sự tu tập th́ mới
được [ủng hộ, gia tŕ như thế]. “Cố đắc viễn ly ma nạn,
an ổn tu tŕ. Trượng tha lực cố, hóa hiểm vi
di, xưng vi dị hành đạo” (Cho nên được
xa ĺa ma nạn, an ổn tu tŕ; do cậy vào tha lực nên hóa
hiểm thành lành, [do đó pháp này] được gọi là đạo
dễ hành). Cư sĩ Lưu Tố Vân là một tấm gương
tốt cho chúng ta, bà ta là người hết sức thật
thà, hết sức hướng nội, cả đời chỉ
sợ danh lợi, trọn chẳng tiêm nhiễm danh lợi.
Do bị bệnh, niệm Phật được lành bệnh,
cảm động bao nhiêu người. Giới truyền
thông tới phỏng vấn bà ta, sau khi đĩa DVD được
phát hành đă cảm động vô số người. Đúng
là ban cho chúng ta một gương tốt về đạo
dễ hành: Hết sức đơn giản là vạn duyên
buông xuống, nhất tâm nhất ư nương cậy A Di
Đà Phật. Do bà ta chẳng sợ chết, nên bệnh nặng
như vậy, hoàn toàn chẳng lo lắng. Bác sĩ bảo
bà ta có thể chết bất cứ lúc nào, bảo bà hăy chuẩn
bị tâm lư. Bà ta nói: “Tôi chẳng bận tâm đến điều
ấy, lúc nào tôi cũng mong mỏi A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn tôi, thế giới Cực Lạc là quê cũ
của tôi”. Chẳng có chút cảm giác hoảng sợ ǵ, tâm
b́nh khí ḥa. Đó là điều khiến cho bác sĩ và y tá
trong bệnh viện hết sức bội phục. Cớ
sao bà ta an tường dường ấy, chẳng sợ hăi
tí nào, chẳng lo buồn chút nào, do nguyên nhân ǵ vậy? Về
sau, họ biết bà ta là người học Phật, niệm
Phật. Do đó, phong khí niệm Phật lan truyền, người
niệm Phật ở chỗ bà ta sống trở nên đông
hơn, kẻ không tin cũng tin tưởng, kẻ chẳng
niệm Phật cũng niệm Phật. Hiện thời tiếng
tăm lan truyền, mọi người đều biết
tới, các nơi đều mời mọc bà ta. Tôi nói: “Tốt
lắm!” Bà ta cũng rất vui vẻ, rất nghe lời, tôi
bảo: “Đây là A Di Đà Phật trao sứ mạng cho bà,
bà phải đi nhiều, gặp gỡ nhiều, trao đổi
nhiều, khiến cho càng nhiều người hiểu rơ, giác
ngộ”. Chuyện này chẳng giả, bà ta hiện thân thuyết
pháp, có đạo lư to lớn trong ấy!
Tiếp
theo đó, cụ Hoàng nêu ra một vấn đề, vấn
đề này rất có thể xảy ra. Có những kẻ học
Phật: “Hoặc dĩ đàm tha
lực vi trước tướng” (Chắc cũng kẻ
bảo tha lực là chấp tướng), kẻ nào thế?
Kẻ học Thiền Tông, họ chê quư vị chấp tướng.
Chấp tướng được thôi! Chúng ta chấp tướng,
nhưng chấp tướng để cầu văng sanh. “Ưng tri tha lực, diệc thị
tự tâm, tự tha bất nhị” (Nên biết tha lực
cũng là tự tâm, tự và tha chẳng hai), trong Tịnh Tông
thường nói “tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh Độ”, tự tha là một, tự
tha bất nhị, “tự tha uyển
nhiên” (tự tha rành rành). Tự và tha có hay chăng? Có, nói
theo Lư, cùng một tự tánh; nói theo Sự, cùng do một tự
tánh sanh ra, tự tánh có thể sanh ra vạn pháp. “Nhân tha lực nhi hiển tự
tâm, tùng hữu niệm dĩ nhập vô niệm, chánh thị
bổn pháp thâm diệu xứ” (Do tha lực mà hiển lộ
tự tâm, từ hữu niệm mà nhập vô niệm, đấy
chính là chỗ sâu mầu của pháp này). Nếu chúng ta gặp
phải kẻ phê phán chúng ta, quư vị hăy nên liễu giải:
Có thể đáp, [tức là] nếu hiểu đạo lư
này th́ có thể nói với kẻ ấy. Nếu chẳng hiểu
bèn cười trừ, niệm A Di Đà Phật là được
rồi: “Mặc kệ ông nói như thế nào, tôi vẫn một
câu A Di Đà Phật. Tôi cung kính ông, pháp môn của ông hay lắm,
tôi tán thán. Pháp môn này của tôi chẳng bằng, căn tánh
của tôi kém hơn ông. Coi thử trong tương lai hai người
chúng ta, ai sẽ thành công?” Chẳng cần phải kèn cựa
trong hiện tại, nh́n vào sự thành tựu sau này để
chứng thực!
“Thị cố Di Đà Yếu Giải
vân: Thử chi pháp môn, toàn tại liễu Tha tức Tự. Nhược
húy ngôn Tha Phật, tắc thị Tha Kiến vị vong”
(V́ thế, sách Di Đà Yếu Giải viết: “Pháp môn này
chú trọng hiểu rơ Tha chính là Tự. Nếu kiêng nói đến
Phật khác, tức là Tha Kiến chưa hết”). Kẻ ấy
vẫn c̣n phân biệt, vẫn đang chấp trước.
“Nhược thiên trọng Tự
Phật, khước thành Ngă Kiến điên đảo”
(Nếu khăng khăng coi trọng Tự Phật, sẽ
thành Ngă Kiến điên đảo). Ngẫu Ích đại
sư nói hay quá! Do Ngẫu Ích đại sư sống vào cuối
đời Minh, phong khí Thiền học rất thịnh, Thiền
xem thường Tịnh Độ. Do vậy, Liên Tŕ đại
sư thiện xảo phương tiện, chú giải kinh
A Di Đà dùng “thập môn khai khải”
của kinh Hoa Nghiêm để nâng kinh Di Đà lên cảnh giới
giống hệt như Hoa Nghiêm. Đây là phương tiện
thiện xảo và dụng tâm của lăo nhân gia. Trong thời
đại ấy, phong khí Thiền học cực thịnh,
làm thế nào để khiến người ta tin tưởng
Tịnh Độ. Những năm xưa kia, tôi ở Đài
Loan, lúc ấy vừa mới có một đạo tràng nhỏ
là Hoa Tạng Đồ Thư Quán. Khéo sao có một du học
sinh người Mỹ du học tại Đài Loan để
học Phật pháp, học chương tŕnh nghiên cứu
sinh tại Đài Loan. Cô ta t́m đến tôi, ở lại Đồ
Thư Quán. Cô nói tiếng Hoa khá sơi, rất khó có, cô gái ấy
hai mươi mấy tuổi. Tôi hỏi cô học tiếng
Hoa ở đâu? Cô ta học tại Nữu Ước ba
năm. Chúng tôi rất bội phục, học chỉ ba
năm mà nói tiếng Hoa rất lưu loát, có thể đọc
hiểu cổ văn Trung Quốc, quá khó có! Cô ta nghe tôi giảng
kinh Di Đà, mong tôi sang Mỹ hoằng pháp. Cô ta nói: “Thưa
pháp sư! Thầy đến Mỹ th́ mới có thể chấn
hưng Tịnh Độ Tông”. Cô ta ở chỗ tôi bốn
tháng. Đây cũng là một nhân duyên khiến tôi sang Mỹ,
v́ lúc ấy, nước Mỹ chỉ có Thiền Tông và Mật
Tông. Thiền Tông từ Nhật Bản truyền sang. Mật
Tông từ Tây Tạng truyền đến. Pháp sư Trung Quốc
rất nhiều, nhưng ở bên ấy chẳng dễ ǵ
truyền thừa Đại Thừa Phật pháp Trung Quốc.
Đă hết thời gian rồi, ngày mai tôi sẽ lại giảng
đoạn này cho mọi người nghe.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 7 hết
[1] Quân phiệt cát cứ: Đây là thời
kỳ các tướng lănh địa phương nổi
lên xưng hùng xưng bá chia nhỏ Trung Hoa thành từng vùng
kể từ năm 1916 đến năm 1928. Tuy trên danh
nghĩa, họ vẫn tuân phục chính
quyền Trung Hoa Dân Quốc, nhưng các tướng lănh quân
phiệt hầu như có chính quyền, quân đội riêng
biệt, và chánh quyền Trung Ương phải điều
đ́nh, mua chuộc, dựa dẫm họ. Thời kỳ
quân phiệt nổ ra sau cái chết của Viên Thế Khải
vào năm 1926 và chấm dứt sau cuộc Bắc Phạt,
quân phiệt cát cứ vẫn tồn tại cho đến
khi Mao Trạch Đông đánh bại phe Quốc Dân Đảng
mới chấm dứt. Nguyên nhân xa là do triều đ́nh nhà
Thanh không có hệ thống quân đội trung ương,
quân lực được tổ chức thành các tỉnh,
các kỳ, do các quan Đoàn Luyện chỉ huy tại mỗi
tỉnh. Mạnh nhất là quân đoàn Bắc Dương của
Viên Thế Khải. Sau khi lật đổ nhà Thanh, chính quyền
Nam Kinh của Tôn Dật Tiên phải liên kết với Viên
Thế Khải để thống nhất Trung Hoa, và đổi
lại, Viên Thế Khải trở thành đại tổng
thống, thành lập chính quyền Bắc Dương. Mọi
âm mưu chống đối bị họ Viên đè nát, và
khi họ Viên tuyên bố lên ngôi hoàng đế, các tỉnh
miền Nam chống đối, h́nh thành mặt trận
Vệ Quốc, dẫn đến sự xuất hiện
đông đảo các tướng lănh quân phiệt. Trung Hoa
bị tách thành hai chính quyền song hành: chính quyền Bắc
Dương và chính quyền Nam Kinh. Những tướng
quân phiệt nổi tiếng thời ấy là Trương
Tác Lâm, Phùng Quốc Chương, Đoàn Kỳ Thụy, Lê
Nguyên Hồng, Trương Huân, Tào Khôn, Đường Kế
Nghiêu, Diêm Tích Sơn v.v...
[2] Kinh, sử, tử, tập là cách phân chia
truyền thống các sách vở của Trung Hoa, Tứ Khố
Toàn Thư cũng được phân loại nội dung
theo cách này.
1. Kinh bao gồm những tác phẩm giảng
giải về chính trị, luân lư, đạo đức, chủ
yếu là những tác phẩm truyền
thống kinh điển của Nho gia như Tứ Thư,
Ngũ Kinh, Xuân Thu Công Dương Truyện, Xuân Thu Cốc
Lương Truyện, Nhĩ Nhă v.v...
2. Sử là những tác phẩm
ghi chép sự kiện lịch sự, điển
chương, chế độ, địa lư, lại
được chia thành nhiều tiểu loại như
chánh sử, biên niên, bổn sự,
kỷ sự bổn mạt, biệt sử, tạp sử,
chiếu lệnh, tấu nghi, sử kư v.v... Kể cả những
tác phẩm đánh giá, b́nh luận sự kiện lịch sử.
3. Tử bao gồm các trước tác của
bá gia chư tử, Nho gia, Phật, Đạo gia, chia thành
các tiểu loại như Nho gia, binh gia, nông gia, pháp gia, y
gia, thiên văn, toán pháp, thuật số, nghệ thuật,
kư lục, tạp gia, số thư (sách bói toán), tiểu thuyết
gia v.v...
4. Tập bao gồm các tác phẩm trước
tác của các danh sĩ các đời như tản văn,
biền văn, thơ, từ, ca khúc, b́nh luận văn học,
bút kư v.v...
[3] Ngài Nguyên Hiểu (617-685) là một vị
cao tăng Đại Hàn, tục danh Tiết Tư (Seolsa),
thụy hiệu Ḥa Tịnh Quốc Sư, biệt hiệu
Tây Cốc Sa Di, quê ở Khánh Sơn (Gyeongsan), sống vào thời
đại Tân La (Syalla). Sư là bạn thân của sư
Nghĩa Tương (Uisang) sáng tổ tông Hoa Nghiêm của
Đại Hàn. Ngài Nguyên Hiểu trước tác vô cùng phong
phú, chú giải cả trăm loại kinh luận khác nhau (có
sách nói Ngài biên soạn đến 240 bộ chú giải), nên
có mỹ hiệu là Bách Bộ Luận Chủ. Sư
được coi là sơ tổ của Hải Đông
Tông, tức tông phái chuyên nghiên cứu về Pháp Tướng
tại Đại Hàn. Sư đặc biệt có ảnh
hưởng lớn lao đến sự nghiên cứu các
giáo nghĩa Hoa Nghiêm, Duy Thức và Như Lai Tạng trong Phật
giáo Đại Hàn. Do quá lỗi lạc, vua Tân La là Vũ Liệt
Vương đă ép Ngài phải lấy công chúa Dao Thạch
làm vợ, sinh hạ một trai là Tiết Thông (Seol Chong). Tiết
Thông cũng là một nhà nghiên cứu Nho học lỗi lạc
thời ấy.
[4] Đạt Lai Lạt Ma (ta thường
gọi là Đại Lai Lạt Ma) là danh hiệu ghép bởi
từ ngữ Dalai (biển cả) trong tiếng Ấn
Độ và chữ Lama của tiếng Tây Tạng, dịch
nghĩa chữ Guru (trong tiếng Ấn). Đạt Lai vừa
là người lănh đạo nhất của ḍng tu Gelugpa vừa
là quốc vương Tây Tạng. Tương truyền,
danh hiệu Dalai được vua Mông Cổ Altan Khan ban cho
Sonam Gyatso vào năm 1578; đổi lại, Sonam Gyatso công nhận
Altan Khan là Phạm Vương của dân Mông Cổ. Tuy thế,
đây chỉ là truyền thuyết, v́ theo chính vị Đạt
Lai Lạt Ma hiện tại, từ ngữ Dalai chỉ là dịch
nghĩa danh hiệu Gyatso (biển cả) trong tiếng Tây Tạng,
Sonam Gyatso (1543-1558) là trưởng tu viện Drepung đă cảm
hóa được tù trưởng hung bạo nhất của
Mông Cổ thời ấy là Altan Khan. Dưới sự giúp
sức của Altan Khan và con trai của Altan là Sengge Dureng,
Sonam Gyatso đă chuyển Mông Cổ thành quốc gia theo Mật
Tông Tây Tạng. Theo truyền thống, Sonam Gyatso được
coi là hóa thân của Gendun Drup (đại đệ tử của
đại sư Tsongkhapa) đă tôn xưng hai vị Lạt-ma
“tiền thân” của ḿnh đều là Đạt Lai Lạt
Ma, và tự nhận ḿnh là hóa thân của Phagpa (vị cao
tăng chế ra chữ Tây Tạng). Đến đời
Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, Ngawang Lobsang Gyatso
(1617-1682), với sự giúp sức của vua Mông Cổ là
Gushi Khan đă đánh bại các tông phái đối lập,
trở thành quốc vương, và chính ông ta tự nhận
ḿnh là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Chính Đạt
Lai Lạt Ma đă tôn xưng thầy ḿnh là Lobsang Chokyi
Gyaltsen là Panchen Lama (Ban Thiền Lạt Ma) và tuyên bố Ban
Thiền là hóa thân của A Di Đà Phật. Trước
đó, Lobsang Chokyi Gyaltsen được coi là hóa thân đời
thứ tư của Khedrup Je (một trong các đại
đệ tử của đại sư Tsongkhapa).
Vị Jebtsundamba đời thứ nhất
là Undur Geghen Zanabazar (dịch âm chữ Jnanavajra, Trí Kim Cang)
được Ban Thiền và Đạt Lai công nhận là
Phật sống vào năm 1640 và trở thành pháp vương
của toàn thể giáo đồ Phật giáo tại vùng Ngoại
Mông. Vị này đă đóng góp rất nhiều vào văn hóa
Mông Cổ cũng như là người đầu tiên
đă chế ra văn tự Soyombo cho Mông Cổ.
Tsongkhapa (1357-1419), pháp hiệu Lobsang Drakpa
(Thiện Huệ) là giáo tổ sáng lập tông phái Gelugpa (ḍng
đức hạnh hay c̣n gọi là phái Mũ Vàng). Vị này
kế thừa giáo nghĩa của tôn giả Atiśa
Dipankara Shrijnana, đă tổng hợp nhiều giáo nghĩa Mật
giáo đă có từ trước tại Tây Tạng, nhấn
mạnh đến hành tŕ giới luật (do giới luật
trong các tông phái Cổ Mật thường rất lỏng lẻo,
nên tổ Tông Khách Ba phế trừ những hành vi tính dục
nhằm đạt đến giác ngộ trong Mật Tông
trước đó). Ngài được coi là một nhà cải
cách, chấn hưng tôn giáo của Tây Tạng, có công hệ
thống giáo nghĩa Mật Tông Tây Tạng.
[5] “Linh đồng” (xubilgan) là những
đứa trẻ được coi là hóa thân của các lạt-ma
đă mất. Dựa trên những huyền kư hoặc dự
ngôn của vị lạt-ma đă mất, các môn đệ
đi t́m đứa trẻ ấy đem về, trắc
nghiệm chứng thực rồi tấn phong đứa trẻ
ấy vào ngôi vị của vị lạt-ma đă mất. Sở
dĩ Chương Gia đại sư nói “ba đời đầu tiên là thật, từ đời
thứ tư trở đi, không dám chắc” v́ trong quá khứ
đă có trường hợp do tranh chấp quyền lực
giữa các phe phái, không thể công nhận ai mới là vị
lạt-ma hóa thân kế tiếp, phải dùng cách rút thăm
quyết định từ chiếc b́nh vàng do vua Càn Long ban
vào năm 1792. Các đời Đạt Lai Lạt Ma 10, 11 và
12 được chọn theo cách này.
[6] Gia học là cách dạy học trong gia tộc,
hoặc gia đ́nh khá giả mời thầy về dạy
dỗ cho con, hoặc trong làng, mời những người
có học thức, đạo đức làm thầy dạy
cho trẻ nhỏ; đôi khi do chính cha, anh, chú, bác, người
trong họ dạy nhau. Nói chung, không chỉ là dạy chữ
mà c̣n kèm cặp, uốn nắn tính t́nh. Do lớp học
không đông, nên thầy theo dơi tṛ rất sát.
[7] Một trang viên là một đơn vị
kinh tế độc lập trực thuộc quyền sở
hữu của một quư tộc hoặc một danh gia vọng
tộc hay một kẻ giàu có thời cổ, tương tự
như các lănh địa của các lănh chúa tại Âu Châu.
Trang viên thường có ruộng đất riêng, có tường
vây bao bọc, hay hàng rào pḥng vệ, có quy củ, luật lệ
riêng, theo mô h́nh kinh tế tự cung, tự cấp. Trong những
trang viên lớn thường có xưởng chế biến
thực phẩm, quần áo, vật dụng, kho dự trữ,
hoặc các công xưởng chế tạo vật dụng.
Tại Trung Quốc, trang viên đă có từ thời Nam Bắc
Triều, nhất là do t́nh h́nh loạn lạc thường
xuyên, các thủ lănh, phú hào địa phương càng ngày
càng có khuynh hướng chiếm đoạt, sát nhập
đất đai vào lănh địa của ḿnh để
tăng cường oai thế. Trang viên c̣n được gọi
là điền trang, trang điền, trang trạch, trang viện,
sơn trang.